Chủ Nhật, 27 tháng 10, 2013

Trắng da với 5 dược liệu quý từ thiên nhiên.

Trắng da với 5 dược liệu quý từ thiên nhiên
Ngọc trai và nhân sâm - “Thần dược” cho làn da tinh khiết

Trắng da với 5 dược liệu quý từ thiên nhiên.

Thứ Năm, ngày 24/10/2013 08:00 AM (GMT+7)
Những nguyên liệu quý từ thiên nhiên là một nguồn vô tận các phương pháp làm đẹp mà chị em đôi khi chưa khám phá hết.
Những bí quyết làm đẹpchăm sóc dagiảm cân, kinh nghiệm trang điểm, địa chỉ thẩm mỹ viện, luôn được cập nhật mỗi ngày tại Lam dep 24H
1. Nhân sâm – “Thần dược” cho làn da tinh khiết
Làn da của phụ nữ Hàn Quốc cứ đẹp tự nhiên dù ở độ tuổi đôi mươi hay đã trưởng thành.  Ngày nay, nhân sâm vẫn là món quà diệu kì từ thiên nhiên. Đặc biệt với phụ nữ Hàn, đây chính là “thần dược” giúp làn da khỏe mạnh bên trong lẫn bên ngoài. Nhân sâm không chỉ cung cấp dưỡng chất tốt nhất trong việc hồi phục sức khỏe mà còn giúp tái tạo làn da tối màu, làm đẹp và trắng da.
Trắng da với 5 dược liệu quý từ thiên nhiên - 1

2. Hoa nghệ tây và công dụng làm trắng bất ngờ
Nghệ tây thuộc họ hoa diên vĩ, vốn là nguyên liệu quý trong chăm sóc sắc đẹp. Nếu bạn muốn có được làn da trắng hồng trong một thời gian ngắn, bạn có thể sử dụng nghệ tây như một bí quyết hoàn hảo. Nghệ tây có thể được dùng kèm với sữa, bột nghệ, nước chưng cất từ cánh hoa hồng tươi để tạo thành những công thức giúp dưỡng trắng da.
Trắng da với 5 dược liệu quý từ thiên nhiên - 2

3. Ngọc trai đâu chỉ để làm trang sức
Nếu phái đẹp của Hàn Quốc chuộng nhân sâm thì ở Nhật Bản, các cô gái lại ưu tiên dùng ngọc trai cho phương pháp dưỡng trắng da của mình. Với thành phần chủ yếu là canxi, protein, các nguyên tố vi lượng và axit amin, Ngọc trai đã được khoa học chứng minh có tác dụng tái tạo làn da, tăng cường collagen và độ đàn hồi cho da. Đặc biệt, bột ngọc trai luôn được chị em tin dùng nhờ làm mờ các sắc tố đen sạm của da, làm trắng từ sâu bên trong và duy trì làn da mịn màng.
Trắng da với 5 dược liệu quý từ thiên nhiên - 3

4. Tổ Yến – Mỹ vị của giới thượng lưu
Là một loại thực phẩm được xếp hàng “cao lương mỹ vị”, tổ yến nổi tiếng không chỉ vì công dụng bồi bổ cơ thể mà còn nhờ khả năng làm trắng hồng làn da chị em phụ nữ. Yến sào cực kỳ giàu chất đạm với 19 loại axit amin tạo điều kiện cho các tầng biểu bì tăng trưởng dồi dào, chính là yếu tố giúp tế bào mô và da phát triển hồng hào và khỏe mạnh.
Trắng da với 5 dược liệu quý từ thiên nhiên - 4
5. Da trắng hồng nhờ hạt phấn của những chú ong
Mỗi hạt phấn hoa (được các chú ong hút từ nhụy hoa) có chứa 22 loại axit amin, 14 loại vitamin, 18 loại men thiên nhiên và nhiều hoạt chất sinh học khác. Nhờ giá trị dinh dưỡng cao, phấn hoa là một vị thuốc giúp bồi bổ cơ thể cũng như có tác dụng rất tốt trong việc trẻ hóa làn da và dưỡng da trắng hồng hiệu quả.
Trắng da với 5 dược liệu quý từ thiên nhiên - 5
Những nguyên liệu quý từ thiên nhiên là một nguồn vô tận các phương pháp làm đẹp mà chị em phụ nữ đôi khi chưa khám phá hết.
(Nguồn: Công ty T&A Ogilvy)

Thứ Ba, 10 tháng 9, 2013

Một số bài thuốc trị chai chân






Chai chân (clavus), hay còn gọi là mắt cá chân, là tình trạng tăng sinh dày lớp thượng bì nhất là lớp sừng, thường gặp ở các điểm tì ép nhiều trong lòng bàn chân như gót chân, các điểm đối diện với ngón chân 3 và 5, có khi ở lưng ngón chân. Tổn thương nổi thành từng đám dày sừng, màu vàng sẫm, ở giữa có ‘‘nhân’’, ấn vào đau chói. Bệnh không nguy hiểm nhưng gây nhiều phiền toái vì ảnh hưởng đến việc đi lại do đau đớn, đặc biệt là mắt cá ở gót chân.
Để chữa trị bệnh này, Tây y thường băng mỡ salixilic 5 - 20%, gọt bỏ lớp sừng, đốt điện hoặc khoét bỏ bằng phẫu thuật nhưng chỉ mang lại kết quả tạm thời, nhiều khi vẫn tái phát hoặc để lại sẹo xơ hóa to hơn, ấn vào vẫn đau chói.

Trong Đông y, chai chân thuộc phạm vi các chứng bệnh như: nhục chích, kê nhãn..., được xử lý đơn giản bằng một số phương pháp như:

Hồng hoa 3g, địa cốt bì 6g, tán bột trộn với dầu vừng và một chút bột mì thành dạng cao rồi đắp lên tổn thương.

Ô mai 30g sấy khô, tán vụn, đem ngâm với 250ml giấm chua trong 2 tuần rồi lấy dịch thuốc bôi vào tổn thương mỗi ngày 3 lần.
Trần bì 15g, cẩu tích 30g, uy linh tiên 30g, địa phu tử 30g, hồng hoa 10g, sắc lấy nước ngâm chân khi còn nóng, mỗi ngày 2 lần. Mỗi thang có thể dùng 3 - 4 lần.

Tổn thương chai chân.

Bột huyết kiệt 5g, bột đá vôi lượng vừa đủ, hai thứ đem hòa với 100ml nước muối đặc thành dạng cao rồi đắp lên tổn thương, dùng băng y tế cố định trong 24 giờ. Sau đó tháo băng, gỡ bỏ cao thuốc, bóc hết chai rồi dùng mật quạ bôi một lớp mỏng trong 24 giờ. Một nghiên cứu của Trung Quốc tiến hành trên 100 ca đều đạt kết quả tốt.

Giấy cũ nát 30g đem ngâm với 50ml rượu tốt, sau 7 ngày thì dùng được. Trước tiên gọt bỏ lớp sừng dày rồi bôi dịch thuốc, mỗi ngày 2 lần, chừng 7 ngày thì khỏi.

Trước tiên, rửa sạch tổn thương, sát khuẩn bằng cồn y tế rồi dùng dao lam nhẹ nhàng gọt bỏ lớp sừng dày. Sau đó, lấy lá lô hội tươi thái phiến mỏng đắp lên tổn thương và dùng băng cố định, mỗi ngày thay thuốc 2 lần, làm liên tục cho đến khi khỏi.

Phèn phi 10g, hoàng đan 10g, phác tiêu 10g, ba thứ tán bột, trộn đều. Trước tiên, dùng mũi dao khoét 1 lỗ ở trung tâm tổn thương (chú ý không làm chảy máu), sau đó dùng bột thuốc rắc đầy và cố định bằng băng y tế, mỗi ngày thay thuốc 1 lần.

Tỏi vỏ tím 1 củ, hành tươi 1 củ, giấm chua vừa đủ. Trước tiên, dùng cồn y tế sát khuẩn rồi lấy dao lam nhẹ nhàng gọt bỏ lớp sừng dày. Tiếp đó, ngâm chân bằng nước muối trong 20 phút (200ml nước chín pha với 5g muối) rồi dùng tỏi và hành giã nát trộn với giấm chua đắp lên tổn thương, cố định bằng băng y tế, mỗi ngày thay thuốc 1 lần, thông thường 5 - 7 ngày là khỏi.

Ngô công sống (con rết) 1 con rửa sạch, giã nát đem trộn với 1,5g lưu hoàng rồi đắp lên tổn thương, mỗi ngày thay thuốc 1 lần, thường sau 3 - 4 lần là khỏi. Có thể thay lưu hoàng bằng băng phiến 1g.

Ô mai 30g, muối ăn 3g, giấm lâu năm lượng vừa đủ. Ô mai đem ngâm vào nước muối trong 1 ngày rồi bỏ hạt, giã nát, trộn với giấm thành dạng hồ và đắp lên tổn thương, mỗi ngày thay thuốc 1 lần, thường sau 3 lần là khỏi.

Trước tiên, ngâm chân bằng nước ấm rồi dùng dao lam nhẹ nhàng gọt bỏ lớp sừng dày. Sau đó, lấy mật quạ bôi lên tổn thương, dùng băng cố định bên ngoài, 3 - 4 ngày thay thuốc 1 lần.

Ngô công sống 1 con, dầu vừng lượng vừa đủ. Đem ngô công ngâm vào dầu vừng trong 2 ngày rồi lấy ra giã nát và đắp lên tổn thương, thường sau 1 đêm lớp chai chân sẽ bong ra.

Lấy 1 miếng sáp ong đắp lên tổn thương rồi dùng băng cố định bên ngoài, thường sau vài ngày lớp chai chân sẽ bong ra, nếu 1 lần chưa có hiệu quả thì làm thêm 1 lần nữa.

Lấy 30g phá cố chỉ tán nhỏ đem ngâm với 100ml cồn 95% trong lọ thủy tinh, bịt kín miệng, mỗi ngày lắc đều 1 lần, sau 10 ngày thì dùng được. Trước tiên, sát khuẩn tổn thương bằng cồn y tế rồi dùng dao lam nhẹ nhàng gọt bỏ lớp sừng dày sao cho không chảy máu là được, tiếp đó dùng bông thấm dịch thuốc đắp lên vùng bị chai, cố định cho đến khi khô thì thôi, mỗi ngày làm 1 lần, thường sau 5 - 7 ngày là khỏi.

Khánh Hiển_suckhoedoidong.vn

Thứ Hai, 9 tháng 9, 2013

Phương thuốc cổ truyền trừ ho

Phương thuốc cổ truyền trừ ho với hơn 300 năm lịch sử

Thứ Ba 08:36 10/09/2013
Đến nay, với lịch sử hơn 300 năm, phương thuốc trừ ho Xuyên bối tỳ bà cao vẫn được các thế hệ thầy thuốc đông y kế thừa và truyền tụng. Đặc biệt, với công nghệ bào chế hiện đại, phương thuốc đã được phát triển và bào chế dưới nhiều dạng thuốc ho khác nhau, phục vụ nhu cầu trị bệnh của nhân dân. Phương thuốc được ghi chép, bảo tồn trong nhiều tài liệu y học chính thống, trở thành tinh hoa của nền y học cổ truyền phương Đông nói chung và nền y học dân tộc Việt Nam nói riêng.

Từ một truyền thuyết
Cách đây hơn 300 năm, vào triều đại nhà Thanh, Trung Hoa, dân gian truyền nhau câu chuyện cảm động về một vị quan tên là Ian Xyao Lian, nổi tiếng về tấm lòng hiếu thuận với cha mẹ. Một lần, phụ mẫu ông mắc chứng bệnh lạ. Bà ho dòng dã ngày này tháng khác mà không khỏi. Ông cho người tìm kiếm khắp nơi phương thuốc hay, bài thuốc quý, vời những vị danh y nổi tiếng về chữa trị, nhưng bệnh tình vẫn không hề thuyên giảm.

 

May thay, trong lúc tuyệt vọng, ông được một thần y ra tay cứu giúp. Vị thần y này đã lấy một loại cây được trồng phổ biến ở vùng đất Tứ Xuyên, có tên là Xuyên bối mẫu, kết hợp với mật ong và một số thảo dược khác, sắc lên cho bà lão uống. Bà lão kiên trì uống thuốc. Quả nhiên khỏi bệnh. Sức khỏe dần bình phục. Bà và con trai vô cùng phấn trấn, cảm tạ ơn cứu mạng của thần y, đồng thời bày tỏ tâm nguyện được phổ biến rộng rãi phương thuốc này để nhiều người được cứu chữa như bà. Bài thuốc được đặt tên từ 2 vị thuốc chủ đạo là Xuyên bối mẫu và Tỳ bà diệp, nên gọi là Xuyên bối tỳ bà cao. Nhờ công hiệu chữa trị được nhiều chứng ho khác nhau, kể cả những chứng ho dai dẳng lâu này không khỏi…phương thuốc đã được nhân dân khắp nơi truyền tụng, kế thừa từ đời này sang đời khác. Sau này, phương thuốc đã được chứng minh tác dụng thông qua các nghiên cứu khoa học hiện đại. Với kinh nghiệm sử dụng hơn 300 năm và những minh chứng khoa học, Xuyên bối tỳ bà cao được chuẩn hóa và đưa vào Dược điển Trung Quốc, trở thành bài thuốc chính thống, làm cơ sở cho nền công nghiệp Dược phát triển thành nhiều loại dược phẩm khác nhau.

Kết cấu phương thuốc theo y học cổ truyền
Xuyên bối tỳ bà cao gồm nhiều dược liệu được kết hợp theo bố cục Quân – Thần – Tá – Sứ, theo tác dụng chính yếu của các vị thuốc, tương tự thứ bậc của vua tôi quần thần trong triều đình. Quân là vị thuốc quyết định công năng chính của phương thuốc, tương tự như vua, đứng đầu triều đình, quyết định vận mạng của quốc gia, dân tộc.

 

Trong phương thuốc Xuyên bối tỳ bà cao, Xuyên bối mẫu là vị quân, có tác dụng nhuận phế, chỉ khái, hóa đàm, thanh phế, giải độc…Đã có những nghiên cứu dược lý về Xuyên bối mẫu, chứng minh vị thuốc này có tác dụng ức chế nhẹ trung tâm gây ho, an thần, qua đó làm giảm phản xạ ho. Đây là một dược liệu quý và khá đắt tiền. Chữ “Bối mẫu” xuất phát từ ý nghĩa quý như bảo bối của người mẹ, được sử dụng làm phương thuốc trừ ho cho các thai phụ và bà mẹ cho con bú. Ngoài ra, còn được xem là bảo bối trừ ho trong mỗi gia đình Trung Hoa thời xưa, gọi là “Cấp cứu phương”.

Phò tá cho Vua, có Thần, là cánh tay đắc lực giúp vua trong việc trị nước. Tương tự như vậy, vị Thần có vai trò hỗ trợ vị Quân trong trị bệnh. Vị thần trong phương thuốc Xuyên bối tỳ bà cao là Tỳ bà diệp, có tác dụng thanh phế, hòa vị, giáng khí, hóa đờm, được đông y sử dụng trong các trường hợp ho, viêm họng, viêm phế quản mạn tính…Tỳ bà diệp cũng được nghiên cứu về dược lý, cho thấy các tác dụng như giảm co thắt khí quản, long đờm, kháng khuẩn, chống viêm.

Giúp việc cho Thần lại có tướng tá ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Theo ý đó, phương thuốc cổ truyền cũng bao gồm nhiều vị tá, tạo ra tính phong phú về tác dụng cho phương thuốc, góp phần nâng cao hiệu quả trị bệnh chung. Các vị này gồm: Cát cánh, bán hạ có tác dụng làm loãng đờm, nhờ đó giúp đờm dễ được đẩy ra ngoài; Trần bì, gừng tươi, bạc hà chứa nhiều tinh dầu, có tác dụng kháng khuẩn, chống viêm; Khổ hạnh nhân ức chế trung tâm gây ho, làm giảm phản xạ ho; Viễn chí có tác dụng an thần, giảm ho, làm loãng đờm, giảm đau, kháng khuẩn; Qua lâu nhân giúp giảm đau, long đờm, chống viêm; Một điểm khác biệt của phương pháp trị bệnh theo y học cổ truyền, đó là trong phương thuốc ngoài các vị thuốc có tác dụng trị chứng bệnh như giảm ho, long đờm, kháng khuẩn, chống viêm…, còn hết sức coi trọng các vị thuốc có tính bổ dưỡng. Qua đó, một mặt làm tăng cường sinh lực nói chung, vừa điều hòa chức năng tạng phủ, cải thiện phần gốc của bệnh, đem lại hiệu quả trị bệnh lâu dài. Trong phương thuốc này, có các vị như Sa sâm, phục linh, ngũ vị tử là vị thuốc bổ phế, tỳ, vị, phát huy công hiệu vừa tả, vừa bổ theo đông y.

Cam thảo là vị thuốc đóng vai trò làm Sứ có tác dụng dẫn thuốc, điều vị, giúp phương thuốc giảm được vị đắng và dễ uống. Đồng thời, nhờ cam thảo, các vị thuốc khác dễ được hấp thu, thể hiện đúng tính vị, quy kinh, tác dụng. Trong đông y, cam thảo cũng là vị thuốc giúp long đờm, giảm ho, chống viêm.

Thứ Năm, 29 tháng 8, 2013

Bài thuốc trị viêm gan B từ cây chó đẻ


Cây chó đẻ nhiều năm nay được chứng minh là một vị thuốc chữa được nhiều bệnh trong đó có viêm gan siêu vi B.
Cây chó đẻ còn có tên gọi khác là chó đẻ răng cưa, diệp hạ châu, diệp hạ châu đắngcó vị ngọt hơi đắng, tính mát, có tác dụng lợi tiểu, tiêu độc, sát trùng, tán ứ, thông huyết, điều kinh, thanh can, sáng mắt, làm se và hạ nhiệt. Người ta cũng đã nhận thấy tác dụng diệt khuẩn và diệt nấm rõ rệt của acid phenolic và flavonoid trong Chó đẻ răng cưa, Coderacin dùng chế thuốc nhỏ mắt và thuốc mỡ tra mắt, nó có khả năng diệt một số vi khuẩn, nấm và mốc, chủ yếu là các mầm gây bệnh đối với mắt.
Ở Trung Quốc, người ta dùng Chó để răng cưa để chữa: 1. Viêm thận phù thũng; 2. Viêm niệu đạo và sỏi niệu đạo, viêm ruột, lỵ, viêm kết mạc, viêm gan; 3. Trẻ em cam tích, suy dinh dưỡng.
bai-thuoc-tri-viem-gan-b-tu-cay-cho-de
Ở Ấn Độ người ta dùng toàn cây như là thuốc lợi tiểu trong bệnh phù; cũng dùng trị bệnh lậu và những rối loạn đường niệu sinh dục và làm thuốc duốc cá. Rễ cây dùng cho trẻ em mất ngủ. Ở Campuchia, người ta dùng cây sắc uống, dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác trị các bệnh về gan, trị kiết lỵ, sốt rét. Ở Thái Lan, cây được dùng trị các bệnh đau dạ dày, bệnh hoa liễu, vàng da, trĩ và lỵ. Cây non được dùng làm thuốc ho cho trẻ em.
Trên tất cả, chó đẻ được coi là một vị thuốc trị viêm gan B rất tốt.
Cây chó đẻ có chứa nhiều chất thuộc nhóm hóa học khác nhau như flavonoit, alkaloid phyllanthin; các hợp chất hypophyllanthin, nirathin, phylteralin, tritequen, tamin, axit hữu cơ, phenol, lignam…
Về dược năng, thí nghiệm về hoạt tính bảo vệ gan của cây chó đẻ cho thấy có tác dụng bảo vệ gan. Các thí nghiệm với kháng nguyên HbsAg chứng tỏ cây chó đẻ có tác dụng kháng virus viêm gan B. Đông y cho rằng cây chó đẻ vị ngọt, hơi đắng, tính mát, có tác dụng lợi tiểu, tiêu độc, sát trùng, thông huyết, điều kinh, thanh can, lương huyết, hạ nhiệt…; thường được dùng làm thuốc chữa các bệnh đau gan rất hữu hiệu.
Tác dụng giải độc gan và chữa viêm gan siêu vi B chỉ mới được các nhà khoa học lưu ý từ những năm 1980 về sau. Nghiên cứu của các nhà khoa học Nhật Bản và Ấn Độ cho biết họ đã phân lập được những hợp chất trong cây diệp hạ châu có khả năng chữa bệnh viêm gan. Một báo cáo trên tạp chí Lancet vào năm 1988 cũng xác định tác dụng này. Theo đó, 2 nhà khoa học Blumberg và Thiogarajan đã điều trị 37 trường hợp viêm gan siêu vi B với kết quả 22 người âm tính sau 30 ngày dùng diệp hạ châu. Đối với viêm gan siêu vi, 50% yếu tố lây truyền của virus viêm gan B trong máu đã mất sau 30 ngày sử dụng loại cây này (với liều 900 mg/ngày).
bai-thuoc-tri-viem-gan-b-tu-cay-cho-de
Dưới đây là một số bài thuốc từ cây chó đẻ có tác dụng trị bệnh gan:
- Chữa viêm gan B: Chó đẻ 30 g, nhân trần 12 g, sài hồ 12 g, chi từ 8 g, hạ khô thảo 12 g, sắc (nấu) uống mỗi ngày 1 thang.
- Chữa viêm gan do virus: Diệp hạ châu đắng sao khô 20 g, sắc nước 3 lần. Trộn chung các nước sắc, thêm 50 g đường đun sôi cho tan, chia làm 4 lần uống trong ngày. Khi kết quả xét nghiệm HBsAg (-) thì ngừng thuốc.
- Chữa xơ gan cổ trướng thể năng: Diệp hạ châu đắng sao khô 100 g sắc nước 3 lần. Trộn chung nước sắc, thêm 150 g đường đun sôi cho tan, chia nhiều lần uống trong ngày (thuốc rất đắng), liệu trình 30 – 40 ngày. Khẩu phần hằng ngày phải hạn chế muối, tăng đạm (thịt, cá, trứng, đậu phụ).
- Chữa suy gan (do sốt rét,  sán lá, lỵ amib, ứ mật, nhiễm độc): Diệp hạ châu (ngọt hoặc đắng) sao khô 20 g, cam thảo đất sao khô 20 g, sắc nước uống hằng ngày.
Theo Kienthucgiadinh.com.vn

Thứ Tư, 28 tháng 8, 2013

“Đông y – Tây y như hai bàn tay người thầy thuốc”


Những hạn chế về công cụ chẩn đoán trong y học cổ truyền hay tình trạng lạm dụng thuốc trong y học hiện đại sẽ được khắc phục tối đa với sự kế thừa và chắt lọc tinh hoa từ hai nền y học. Đông – Tây y phối kết hợp chính là xu thế phát triển tự nhiên và tất yếu của các nền y học trên thế giới.
“Đông y – Tây y  như hai bàn tay người thầy thuốc”
Không chỉ châu Á, nhiều nước Âu, Mỹ đã bắt đầu xu hướng “trở về với tự nhiên” qua việc sử dụng ngày càng nhiều các loại thuốc có nguồn gốc cây cỏ hay các phương pháp điều trị của y học cổ truyền để dự phòng, chữa trị và nâng cao sức khỏe. Chỉ tính riêng ở Mỹ đã có khoảng 15 triệu người thường xuyên sử dụng các thuốc cây cỏ ở các mức độ khác nhau,với chi phí hàng năm lên tới 30 tỷ đô la.
Việt Nam có thể tự hào là một trong những quốc gia đi tiên phong xây dựng định hướng phát triển y học, y tế khoa học, đại chúng, kết hợp  cổ truyền và hiện đại. Y học cổ truyền Việt Nam là một bộ phận quan trọng trong nền văn hóa cộng đồng các dân tộc, gắn liền với kinh nghiệm phòng chữa bệnh có lịch sử lâu đời, có nguồn dược liệu phong phú, phù hợp với điều kiện khí hậu, bệnh tật con người Việt Nam.
Từ cách đây hơn nửa thế kỷ (1955), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã định hướng phát triển ngành y tế Việt Nam hiện đại, khoa học, dân tộc, đại chúng, kết hợp chặt chẽ giữa hiện đại và cổ truyền. Chủ tịch nhấn mạnh, ông cha ta có nhiều kinh nghiệm quí báu về cách chữa bệnh bằng thuốc ta không kém gì thuốc tây. Ví dụ, thuốc ta có Sa nhân, Phụ tử chữa được nhiều bệnh, thuốc tây có aspirin, penixilin cũng chữa được nhiều bệnh. Bên nào cũng có ưu điểm, hai ưu điểm cộng lại thì chữa bệnh tốt cho đồng bào, nhân dân.
Do đó, thầy thuốc Tây phải học đông y, thầy thuốc ta cũng phải học thuốc tây. Thầy thuốc ta, thầy thuốc tây đều phải phục vụ nhân dân, như người có hai bàn tay cùng làm việc thì việc làm mới tốt.
Phát huy tinh hoa của hai nền y học
Ưu điểm  của nền “y học thuốc ta” là vận dụng sáng tạo triết học cổ phương đông vào chẩn trị. Vì thế, các thầy thuốc đông y luôn có cách nhìn người bệnh  toàn diện, từ đó có sự điều chỉnh, nâng cao sức đề kháng của cơ thể nhằm khắc phục bệnh tật; rất phù hợp với yêu cầu phòng trị nhiều bệnh lý mạn tính hiện nay.
Đặc biệt, thuốc và các biện pháp không dùng thuốc (dưỡng sinh, châm cứu xoa bóp, ẩm thực trị liệu…) đều có nguồn gốc tự nhiên, vốn quen thuộc, thân thiện với con người và luôn có sẵn ở mọi lúc mọi nơi, phần lớn ít độc, ít tác dụng phụ.
Dĩ nhiên, y học cổ truyền cũng có những hạn chế, đó là phần lớn các công cụ chẩn đoán, điều trị còn thô sơ, chưa được tiêu chuẩn hóa; phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm cá nhân và biến đổi của điều kiện thiên nhiên. Đó cũng là lý do vì sao cho đến nay y học cổ truyền vẫn chưa đáp ứng được những yêu cầu ứng dụng rộng rãi, hiệu quả và kịp thời trong phòng trị các bệnh lý cấp tính,cấp cứu, lây nhiễm rộng và nhanh.
Y học hiện đại nhờ ứng dụng những thành quả công nghệ khoa tiên tiến của nhân loại  với các trang thiết bị hiện đại, các hóa dược mạnh, có thể chẩn đoán, can thiệp, điều trị kịp thời, có hiệu quả cao các bệnh lý cấp cứu, ngoại khoa, cấp tính, truyền nhiễm… thậm chí nếu cần thiết có thể cấy ghép, thay thế các bộ phận bệnh lý.
Tuy nhiên, hạn chế của y học hiện đại lại chính là việc người bệnh, thậm chí cả thầy thuốc dễ bị rơi vào tình trạng lạm dụng thuốc. Các dược chất bị lạm dụng vốn chưa từng có trong tự nhiên, xa lạ với cơ thể con người, đã và đang gây nhiều tác hại cho sức khỏe nhân loại…
Ngoài ra, sự phát triển quá nhanh, quá sâu của các chuyên khoa hẹp cũng là điều kiện thuận lợi cho khuynh hướng chỉ quan tâm tới chữa bệnh đơn thuần, coi nhẹ việc chăm sóc nhằm cải thiện khả năng tự điều chỉnh, tích cực, chủ động bảo vệ sức khỏe của người bệnh.
Chính vì thế, để đạt mục tiêu nâng cao sức khỏe, an toàn, hiệu quả, hiện đại, dễ tiếp cận trong khám chữa bệnh, xu hướng của các nước là kết hợp hai nền y học một cách toàn diện, chặt chẽ. Kết hợp hai nền y học chính là một bước nâng  cao của quá trình kế thừa, trong quá trình kết hợp mỗi nền y học cần chọn lọc, giữ lại những phần tinh hoa, loại bỏ, hạn chế những phần độc hại, lạc hậu, để xây dựng một nền y học thực sự vì con người, cho con người.   
Các hình thức kết hợp có thể vận dụng  trong khám chữa bệnh
1.      Khám, chẩn đoán, điều trị chủ yếu bằng y học cổ truyền, kết hợp với các xét nghiệm cận lâm sàng cần thiết của y học hiện đại, giúp nâng cao tính an toàn, hiệu quả của y học cổ truyền
2.      Khám chẩn đoán bằng cả y học cổ truyền và y học hiện đại, tùy theo mức độ, giai đoạn bệnh, để chọn lựa cách điều trị phù hợp cho từng giai đoạn, chủ yếu bằng y học hiện đại hay y học cổ truyền hoặc kết hợp cả hai
3.       Điều trị căn nguyên ,theo cơ chế bệnh sinh bằng y học hiện đại, kết hợp thuốc,các biện pháp không dung thuốc y học cổ truyền (châm cứu, xoa bóp,bấm huyệt, nhằm hạn chế tác  dụng phụ,  độc hại của thuốc đặc trị, hồi phục chức năng, nâng cao chất lượng sống của người bệnh (y học cổ truyền hỗ trợ điều trị ung thư,HIV/AIDS, hồi phục chức năng sau đột quỵ….)
4.       Điều trị căn nguyên ,cơ chế bệnh sinh chủ yếu bằng y học cổ truyền, kết hợp y học hiện đại khi có kèm theo bệnh lý cấp tính ,diễn  biến phức tạp (nhiễm trùng nặng )…
Có thể nói, việc kết hợp hài hòa hai nền y học trong khám chữa bệnh ngoài việc mang lại lợi ích cho người bệnh, còn góp phần xây dựng cơ sở thực tiễn và khoa học để xây dựng  các công nghệ cao, mới và đáp ứng nhu cầu thời đại. Việc này rất  cần sự phối hợp đồng bộ ,toàn diện giữa cộng đồng và các nhà hoạch định chính  sách, quản lý; lãnh đạo; các nhà đầu tư; các nhà thực hành y, dược cả cổ truyền và hiện đại .

                                                                                                                             Nguồn: VINMEC