Thứ Năm, 29 tháng 8, 2013

Bài thuốc trị viêm gan B từ cây chó đẻ


Cây chó đẻ nhiều năm nay được chứng minh là một vị thuốc chữa được nhiều bệnh trong đó có viêm gan siêu vi B.
Cây chó đẻ còn có tên gọi khác là chó đẻ răng cưa, diệp hạ châu, diệp hạ châu đắngcó vị ngọt hơi đắng, tính mát, có tác dụng lợi tiểu, tiêu độc, sát trùng, tán ứ, thông huyết, điều kinh, thanh can, sáng mắt, làm se và hạ nhiệt. Người ta cũng đã nhận thấy tác dụng diệt khuẩn và diệt nấm rõ rệt của acid phenolic và flavonoid trong Chó đẻ răng cưa, Coderacin dùng chế thuốc nhỏ mắt và thuốc mỡ tra mắt, nó có khả năng diệt một số vi khuẩn, nấm và mốc, chủ yếu là các mầm gây bệnh đối với mắt.
Ở Trung Quốc, người ta dùng Chó để răng cưa để chữa: 1. Viêm thận phù thũng; 2. Viêm niệu đạo và sỏi niệu đạo, viêm ruột, lỵ, viêm kết mạc, viêm gan; 3. Trẻ em cam tích, suy dinh dưỡng.
bai-thuoc-tri-viem-gan-b-tu-cay-cho-de
Ở Ấn Độ người ta dùng toàn cây như là thuốc lợi tiểu trong bệnh phù; cũng dùng trị bệnh lậu và những rối loạn đường niệu sinh dục và làm thuốc duốc cá. Rễ cây dùng cho trẻ em mất ngủ. Ở Campuchia, người ta dùng cây sắc uống, dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác trị các bệnh về gan, trị kiết lỵ, sốt rét. Ở Thái Lan, cây được dùng trị các bệnh đau dạ dày, bệnh hoa liễu, vàng da, trĩ và lỵ. Cây non được dùng làm thuốc ho cho trẻ em.
Trên tất cả, chó đẻ được coi là một vị thuốc trị viêm gan B rất tốt.
Cây chó đẻ có chứa nhiều chất thuộc nhóm hóa học khác nhau như flavonoit, alkaloid phyllanthin; các hợp chất hypophyllanthin, nirathin, phylteralin, tritequen, tamin, axit hữu cơ, phenol, lignam…
Về dược năng, thí nghiệm về hoạt tính bảo vệ gan của cây chó đẻ cho thấy có tác dụng bảo vệ gan. Các thí nghiệm với kháng nguyên HbsAg chứng tỏ cây chó đẻ có tác dụng kháng virus viêm gan B. Đông y cho rằng cây chó đẻ vị ngọt, hơi đắng, tính mát, có tác dụng lợi tiểu, tiêu độc, sát trùng, thông huyết, điều kinh, thanh can, lương huyết, hạ nhiệt…; thường được dùng làm thuốc chữa các bệnh đau gan rất hữu hiệu.
Tác dụng giải độc gan và chữa viêm gan siêu vi B chỉ mới được các nhà khoa học lưu ý từ những năm 1980 về sau. Nghiên cứu của các nhà khoa học Nhật Bản và Ấn Độ cho biết họ đã phân lập được những hợp chất trong cây diệp hạ châu có khả năng chữa bệnh viêm gan. Một báo cáo trên tạp chí Lancet vào năm 1988 cũng xác định tác dụng này. Theo đó, 2 nhà khoa học Blumberg và Thiogarajan đã điều trị 37 trường hợp viêm gan siêu vi B với kết quả 22 người âm tính sau 30 ngày dùng diệp hạ châu. Đối với viêm gan siêu vi, 50% yếu tố lây truyền của virus viêm gan B trong máu đã mất sau 30 ngày sử dụng loại cây này (với liều 900 mg/ngày).
bai-thuoc-tri-viem-gan-b-tu-cay-cho-de
Dưới đây là một số bài thuốc từ cây chó đẻ có tác dụng trị bệnh gan:
- Chữa viêm gan B: Chó đẻ 30 g, nhân trần 12 g, sài hồ 12 g, chi từ 8 g, hạ khô thảo 12 g, sắc (nấu) uống mỗi ngày 1 thang.
- Chữa viêm gan do virus: Diệp hạ châu đắng sao khô 20 g, sắc nước 3 lần. Trộn chung các nước sắc, thêm 50 g đường đun sôi cho tan, chia làm 4 lần uống trong ngày. Khi kết quả xét nghiệm HBsAg (-) thì ngừng thuốc.
- Chữa xơ gan cổ trướng thể năng: Diệp hạ châu đắng sao khô 100 g sắc nước 3 lần. Trộn chung nước sắc, thêm 150 g đường đun sôi cho tan, chia nhiều lần uống trong ngày (thuốc rất đắng), liệu trình 30 – 40 ngày. Khẩu phần hằng ngày phải hạn chế muối, tăng đạm (thịt, cá, trứng, đậu phụ).
- Chữa suy gan (do sốt rét,  sán lá, lỵ amib, ứ mật, nhiễm độc): Diệp hạ châu (ngọt hoặc đắng) sao khô 20 g, cam thảo đất sao khô 20 g, sắc nước uống hằng ngày.
Theo Kienthucgiadinh.com.vn

Thứ Tư, 28 tháng 8, 2013

“Đông y – Tây y như hai bàn tay người thầy thuốc”


Những hạn chế về công cụ chẩn đoán trong y học cổ truyền hay tình trạng lạm dụng thuốc trong y học hiện đại sẽ được khắc phục tối đa với sự kế thừa và chắt lọc tinh hoa từ hai nền y học. Đông – Tây y phối kết hợp chính là xu thế phát triển tự nhiên và tất yếu của các nền y học trên thế giới.
“Đông y – Tây y  như hai bàn tay người thầy thuốc”
Không chỉ châu Á, nhiều nước Âu, Mỹ đã bắt đầu xu hướng “trở về với tự nhiên” qua việc sử dụng ngày càng nhiều các loại thuốc có nguồn gốc cây cỏ hay các phương pháp điều trị của y học cổ truyền để dự phòng, chữa trị và nâng cao sức khỏe. Chỉ tính riêng ở Mỹ đã có khoảng 15 triệu người thường xuyên sử dụng các thuốc cây cỏ ở các mức độ khác nhau,với chi phí hàng năm lên tới 30 tỷ đô la.
Việt Nam có thể tự hào là một trong những quốc gia đi tiên phong xây dựng định hướng phát triển y học, y tế khoa học, đại chúng, kết hợp  cổ truyền và hiện đại. Y học cổ truyền Việt Nam là một bộ phận quan trọng trong nền văn hóa cộng đồng các dân tộc, gắn liền với kinh nghiệm phòng chữa bệnh có lịch sử lâu đời, có nguồn dược liệu phong phú, phù hợp với điều kiện khí hậu, bệnh tật con người Việt Nam.
Từ cách đây hơn nửa thế kỷ (1955), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã định hướng phát triển ngành y tế Việt Nam hiện đại, khoa học, dân tộc, đại chúng, kết hợp chặt chẽ giữa hiện đại và cổ truyền. Chủ tịch nhấn mạnh, ông cha ta có nhiều kinh nghiệm quí báu về cách chữa bệnh bằng thuốc ta không kém gì thuốc tây. Ví dụ, thuốc ta có Sa nhân, Phụ tử chữa được nhiều bệnh, thuốc tây có aspirin, penixilin cũng chữa được nhiều bệnh. Bên nào cũng có ưu điểm, hai ưu điểm cộng lại thì chữa bệnh tốt cho đồng bào, nhân dân.
Do đó, thầy thuốc Tây phải học đông y, thầy thuốc ta cũng phải học thuốc tây. Thầy thuốc ta, thầy thuốc tây đều phải phục vụ nhân dân, như người có hai bàn tay cùng làm việc thì việc làm mới tốt.
Phát huy tinh hoa của hai nền y học
Ưu điểm  của nền “y học thuốc ta” là vận dụng sáng tạo triết học cổ phương đông vào chẩn trị. Vì thế, các thầy thuốc đông y luôn có cách nhìn người bệnh  toàn diện, từ đó có sự điều chỉnh, nâng cao sức đề kháng của cơ thể nhằm khắc phục bệnh tật; rất phù hợp với yêu cầu phòng trị nhiều bệnh lý mạn tính hiện nay.
Đặc biệt, thuốc và các biện pháp không dùng thuốc (dưỡng sinh, châm cứu xoa bóp, ẩm thực trị liệu…) đều có nguồn gốc tự nhiên, vốn quen thuộc, thân thiện với con người và luôn có sẵn ở mọi lúc mọi nơi, phần lớn ít độc, ít tác dụng phụ.
Dĩ nhiên, y học cổ truyền cũng có những hạn chế, đó là phần lớn các công cụ chẩn đoán, điều trị còn thô sơ, chưa được tiêu chuẩn hóa; phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm cá nhân và biến đổi của điều kiện thiên nhiên. Đó cũng là lý do vì sao cho đến nay y học cổ truyền vẫn chưa đáp ứng được những yêu cầu ứng dụng rộng rãi, hiệu quả và kịp thời trong phòng trị các bệnh lý cấp tính,cấp cứu, lây nhiễm rộng và nhanh.
Y học hiện đại nhờ ứng dụng những thành quả công nghệ khoa tiên tiến của nhân loại  với các trang thiết bị hiện đại, các hóa dược mạnh, có thể chẩn đoán, can thiệp, điều trị kịp thời, có hiệu quả cao các bệnh lý cấp cứu, ngoại khoa, cấp tính, truyền nhiễm… thậm chí nếu cần thiết có thể cấy ghép, thay thế các bộ phận bệnh lý.
Tuy nhiên, hạn chế của y học hiện đại lại chính là việc người bệnh, thậm chí cả thầy thuốc dễ bị rơi vào tình trạng lạm dụng thuốc. Các dược chất bị lạm dụng vốn chưa từng có trong tự nhiên, xa lạ với cơ thể con người, đã và đang gây nhiều tác hại cho sức khỏe nhân loại…
Ngoài ra, sự phát triển quá nhanh, quá sâu của các chuyên khoa hẹp cũng là điều kiện thuận lợi cho khuynh hướng chỉ quan tâm tới chữa bệnh đơn thuần, coi nhẹ việc chăm sóc nhằm cải thiện khả năng tự điều chỉnh, tích cực, chủ động bảo vệ sức khỏe của người bệnh.
Chính vì thế, để đạt mục tiêu nâng cao sức khỏe, an toàn, hiệu quả, hiện đại, dễ tiếp cận trong khám chữa bệnh, xu hướng của các nước là kết hợp hai nền y học một cách toàn diện, chặt chẽ. Kết hợp hai nền y học chính là một bước nâng  cao của quá trình kế thừa, trong quá trình kết hợp mỗi nền y học cần chọn lọc, giữ lại những phần tinh hoa, loại bỏ, hạn chế những phần độc hại, lạc hậu, để xây dựng một nền y học thực sự vì con người, cho con người.   
Các hình thức kết hợp có thể vận dụng  trong khám chữa bệnh
1.      Khám, chẩn đoán, điều trị chủ yếu bằng y học cổ truyền, kết hợp với các xét nghiệm cận lâm sàng cần thiết của y học hiện đại, giúp nâng cao tính an toàn, hiệu quả của y học cổ truyền
2.      Khám chẩn đoán bằng cả y học cổ truyền và y học hiện đại, tùy theo mức độ, giai đoạn bệnh, để chọn lựa cách điều trị phù hợp cho từng giai đoạn, chủ yếu bằng y học hiện đại hay y học cổ truyền hoặc kết hợp cả hai
3.       Điều trị căn nguyên ,theo cơ chế bệnh sinh bằng y học hiện đại, kết hợp thuốc,các biện pháp không dung thuốc y học cổ truyền (châm cứu, xoa bóp,bấm huyệt, nhằm hạn chế tác  dụng phụ,  độc hại của thuốc đặc trị, hồi phục chức năng, nâng cao chất lượng sống của người bệnh (y học cổ truyền hỗ trợ điều trị ung thư,HIV/AIDS, hồi phục chức năng sau đột quỵ….)
4.       Điều trị căn nguyên ,cơ chế bệnh sinh chủ yếu bằng y học cổ truyền, kết hợp y học hiện đại khi có kèm theo bệnh lý cấp tính ,diễn  biến phức tạp (nhiễm trùng nặng )…
Có thể nói, việc kết hợp hài hòa hai nền y học trong khám chữa bệnh ngoài việc mang lại lợi ích cho người bệnh, còn góp phần xây dựng cơ sở thực tiễn và khoa học để xây dựng  các công nghệ cao, mới và đáp ứng nhu cầu thời đại. Việc này rất  cần sự phối hợp đồng bộ ,toàn diện giữa cộng đồng và các nhà hoạch định chính  sách, quản lý; lãnh đạo; các nhà đầu tư; các nhà thực hành y, dược cả cổ truyền và hiện đại .

                                                                                                                             Nguồn: VINMEC

Thứ Sáu, 23 tháng 8, 2013

HỘI AN CHÀO MỪNG 67 NĂM NGÀY THÀNH LẬP HỘI ĐÔNG Y VIỆT NAM

 
 
 

L.D.NGUYỄN CHÍ HIẾU BTC DẪN CHƯƠNG TRÌNH

 
CÁC ĐẠI BIỂU VÀ KHÁCH MỜI
 
VĂN NGHỆ CHÀO MỪNG NGÀY GẶP MẶT
 
 
 
.TỈNH HỘI QUẢNG NAM TẶNG HOA CHÚC MỪNG
 
 
PCT. TRẦN HÒA .
 
 
LY.TRẦN ÍCH
 
 
LY. BÙI PHƯỚC DUI
 
 
Đ D .BAN CHĂM SÓC SKCĐ TẶNG QUÀ LƯU NIỆM
 
BS.TRẦN THANH MINH PHÁT BIỂU THAM LUẬN
 
 
Posted by PicasaNHẬN VÀ CẤP THẺ HỘI VIÊN MỚI

Thứ Sáu, 16 tháng 8, 2013

CHỈ THỊ VỀ PHÁT TRIỂN NỀN ĐÔNG Y VIỆT NAM VÀ HỘI ĐÔNG Y VIỆT NAM TRONG TÌNH HÌNH MỚI

BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
--------
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
---------------
Số: 24-CT/TW
Hà Nội, ngày 04 tháng 7 năm 2008

CHỈ THỊ
VỀ PHÁT TRIỂN NỀN ĐÔNG Y VIỆT NAM VÀ HỘI ĐÔNG Y VIỆT NAM TRONG TÌNH HÌNH MỚI
Thực hiện Chỉ thị 118-CT/TW, ngày 30-9-1981 của Ban Bí thư khóa IV, Hội Đông y Việt Nam đã có những bước phát triển quan trọng. Hệ thống tổ chức Hội Đông y Việt Nam được hình thành ở 4 cấp và đã thành lập ở 61 tỉnh, thành phố, 90% huyện, thị và 80% xã, phường. Số lượng hội viên ngày càng tăng. Hoạt động của Hội Đông y Việt Nam ở các cấp đã góp phần quan trọng trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân và phát triển nền đông y nước nhà : việc khám, chữa bệnh bằng đông y được mở rộng, số lượng cán bộ ngành đông y tăng, trình độ chuyên môn được nâng cao; thuốc đông y Việt Nam đa dạng về chủng loại; hoạt động xã hội hoá và công tác quản lý hành nghề đông y có những tiến bộ đáng kể.
Tuy nhiên, sự phát triển của nền đông y Việt Nam và Hội Đông y Việt Nam chưa tương xứng với tiềm năng vốn có, chưa ngang tầm với yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới. Những hạn chế này song hành với những yếu kém và hạn chế trong sự phát triển của nền đông y Việt Nam và trong triển khai chính sách quốc gia về y dược học cổ truyền. Hiện nay, nhiều cấp uỷ đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ về vai trò và tầm quan trọng của đông y; chưa quan tâm đúng mức đến việc xây dựng và phát triển nền đông y Việt Nam và Hội Đông y Việt Nam trong chính sách y tế và chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
Trước tình hình đó, Ban Bí thư Trung ương Đảng yêu cầu các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quán triệt và thực hiện tốt những nội dung sau đây:
1- Quan điểm chỉ đạo
1.1- Phát triển nền đông y Việt Nam vì mục tiêu bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của nhân dân, góp phần cải thiện và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là trách nhiệm các cấp uỷ đảng, chính quyền và toàn xã hội.
1.2- Phát triển nền đông y Việt Nam là góp phần bảo tồn bản sắc, phát huy và phát triển một bộ phận văn hóa của dân tộc Việt Nam, thể hiện tinh thần độc lập và tự cường của dân tộc Việt Nam.
1.3- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, tăng cường ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, giữ gìn tính đặc thù của nền đông y Việt Nam, đưa nền đông y Việt Nam thành một ngành khoa học mạnh, góp phần tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu sản phẩm, dịch vụ đông y.
1.4- Phát triển nền đông y Việt Nam theo nguyên tắc kết hợp chặt chẽ giữa đông y và tây y trên tất cả các khâu : tổ chức, đào tạo, kế thừa, nghiên cứu, áp dụng vào phòng bệnh và khám, chữa bệnh, nuôi trồng dược liệu, bảo tồn các cây, con quý hiếm làm thuốc, sản xuất thuốc; đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động đông y.
1.5- Củng cố, phát triển Hội Đông y Việt Nam là thực hiện công tác dân vận của Đảng và góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Hội Đông y Việt Nam và các tổ chức thành viên là tổ chức xã hội - nghề nghiệp tự chủ, năng động và sáng tạo, đại diện hợp pháp về quyền lợi và trách nhiệm của những người hành nghề đông y. Hội Đông y có vai trò nòng cốt trong phát triển nền đông y Việt Nam.
2- Mục tiêu phát triển nền đông y Việt Nam và Hội Đông y Việt Nam
2.1- Đẩy mạnh việc nghiên cứu, kế thừa, bảo tồn và phát triển đông y; kết hợp đông y với tây y trong chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân; xây dựng nền y dược học Việt Nam hiện đại, khoa học, dân tộc và đại chúng, ngang tầm khu vực và thế giới; từng bước quảng bá nền đông y Việt Nam ra nước ngoài.
2.2- Hoàn thiện hệ thống tổ chức chuyên ngành đông y từ Trung ương đến địa phương; tiếp tục triển khai thực hiện “chính sách quốc gia về y dược học cổ truyền đến năm 2010” và những năm tiếp theo. Xây dựng đội ngũ thầy thuốc đông y đông đảo về số lượng, giỏi về chuyên môn và trong sáng về y đức, đặc biệt chú trọng xây dựng đội ngũ chuyên gia đầu ngành.
2.3- Củng cố tổ chức, phát triển hội viên, đẩy mạnh hoạt động của Hội Đông y Việt Nam và các tổ chức thành viên ở các cấp để Hội thực sự đóng vai trò nòng cốt trong sự nghiệp phát triển nền đông y Việt Nam, góp phần đắc lực vào sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ nhân dân và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân.
3- Nhiệm vụ và giải pháp
3.1- Nâng cao nhận thức về vai trò của đông y, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ đảng, chính quyền đối với việc phát triển nền đông y Việt Nam.
3.2- Tiếp tục kiện toàn hệ thống khám, chữa bệnh bằng đông y và quản lý nhà nước về đông y, đông dược từ Trung ương đến cơ sở. Xác định rõ trách nhiệm và phân công, phân cấp hợp lý giữa các ngành và các cấp trong nhiệm vụ phát triển nền đông y và Hội Đông y Việt Nam.
3.3- Hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng cơ chế, chính sách và những quy định cụ thể để thực hiện việc kết hợp giữa đông y và tây y một cách hài hoà và hiệu quả. Cần có chính sách đặc thù trong bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ để các lương y chuyển giao những bài thuốc hay, cây thuốc quý và những kinh nghiệm phòng, chữa bệnh bằng đông y, khuyến khích truyền nghề cho thế hệ sau. Xây dựng các chế tài để xử lý nghiêm đối với những trường hợp hành nghề đông y, đông dược trái pháp luật.
3.4- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống mã ngành đào tạo thầy thuốc đông y, kể cả lương y, lương dược ở các bậc học khác nhau; tăng cường đầu tư, hoàn thiện hệ thống các cơ sở đào tạo, bao gồm trường đại học, trung học và dạy nghề đông y theo quy định của pháp luật, chú trọng đào tạo chuyên gia đầu ngành.
3.5- Xây dựng quy hoạch tổng thể vùng chuyên nuôi trồng dược liệu; đẩy mạnh nghiên cứu, điều tra, bảo tồn nguồn quỹ gen về dược liệu Việt Nam, xác định nhu cầu sử dụng dược liệu phục vụ công tác khám, chữa bệnh và xuất khẩu. Kết hợp chặt chẽ giữa việc khuyến khích “trồng cây thuốc tại vườn, tại nhà” với việc hình thành các vùng chuyên nuôi trồng, chế biến cây, con làm thuốc theo hướng công nghiệp.
3.6- Ưu tiên đầu tư và có chính sách đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật. Chú trọng việc giữ gìn bản sắc truyền thống và tính đặc thù của nền đông y Việt Nam từ kế thừa, bảo tồn, nuôi trồng, khai thác, chế biến dược liệu đến các phương pháp khám, chữa bệnh.
3.7- Đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước thành lập các cơ sở khám chữa bệnh, đào tạo nhân lực, sản xuất kinh doanh thuốc đông y, phát triển các vùng dược liệu; sớm xây dựng các tập đoàn đông dược đáp ứng nhu cầu phát triển và hội nhập.
3.8- Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực đào tạo và nghiên cứu khoa học, khám chữa bệnh, nuôi trồng, chế biến dược liệu và trao đổi chuyên gia về đông y.
3.9- Để tăng cường vai trò nòng cốt của Hội Đông y trong phát triển nền đông y Việt Nam, cần thực hiện những nhiệm vụ sau :
- Các cấp uỷ đảng và chính quyền cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của Hội Đông y, trực tiếp chỉ đạo các cấp hội kiện toàn tổ chức ở 4 cấp; chú trọng việc đẩy mạnh hoạt động hội, phát triển hội viên, nhất là ở cấp cơ sở. Nhà nước có cơ chế, chính sách tạo điều kiện cho Hội Đông y hoạt động và phát triển. Hội Đông y Việt Nam và các tổ chức thành viên chủ động xây dựng kế hoạch hoạt động, bao gồm việc củng cố tổ chức, phát triển hội viên, kết hợp chặt chẽ với ngành y tế trong các hoạt động chuyên môn, thực hiện đầy đủ trách nhiệm của thành viên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam có trách nhiệm phối hợp, tham gia xây dựng và phát triển nền đông y Việt Nam và Hội Đông y Việt Nam.
- Ban cán sự đảng Bộ Y tế chủ động phối hợp với Hội Đông y Việt Nam, Ban cán sự đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo xây dựng và hoàn thiện hệ thống tổ chức, chương trình đào tạo các loại hình cán bộ chuyên ngành đông y, trong đó có lương y, lương dược theo các quy định của Chính phủ.
- Ban cán sự đảng Bộ Y tế phối hợp với Ban cán sự đảng Bộ Nội vụ, Hội Đông y Việt Nam chỉ đạo xây dựng các ngạch viên chức về lương y, lương dược.
- Nhà nước có cơ chế, chính sách tăng cường vai trò của Hội Đông y trong quản lý hành nghề (cấp chứng chỉ, kiểm tra hành nghề đông y) phù hợp với năng lực, khả năng hoạt động của Hội Đông y Việt Nam, các tổ chức thành viên và theo quy định của pháp luật.
- Hội Đông y Việt Nam chủ động phối hợp với các ngành chức năng đẩy mạnh sưu tầm, phát hiện, tập hợp và quy hoạch bảo tồn nguồn quỹ gen các cây, con làm thuốc; đặc biệt những cây, con quý hiếm có nguy cơ tiệt chủng; nghiên cứu quy trình sản xuất thuốc, từng bước ứng dụng khoa học và công nghệ trong chế biến, sản xuất thuốc đông dược, tạo ra nhiều thuốc thành phẩm chữa bệnh có hiệu quả cao, nhưng vẫn giữ được tính đặc thù của thuốc đông dược.Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì cùng Ban cán sự đảng Bộ Y tế, Ban cán sự đảng Bộ Nội vụ, Đảng đoàn Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam và Trung ương Hội Đông y Việt Nam có trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra, đánh giá và định kỳ báo cáo Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc thực hiện Chỉ thị này.

Nơi nhận :
- Các tỉnh uỷ, thành uỷ,
- Các ban đảng, ban cán sự đảng,
đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc Trung ương,
- Các đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
- Hội Đông y Việt Nam,
- Lưu Văn phòng Trung ương Đảng
T/M BAN BÍ THƯ




Trương Tấn Sang


QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH , PHÁT TRIỂN NỀN ĐÔNG Y VIỆT NAM VÀ HỘI ĐÔNG Y THÀNH PHỐ HỘI AN

Nền Đông y Việt Nam là một bộ phận di sản văn hóa dân tộc. Trải qua hàng nghìn năm tồn tại và phát triển, nền Đông y Việt Nam luôn gắn liền với lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại của toàn dân tộc. Trên suốt chặng đường lịch sử, đặc biệt trong hơn 20 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nền Đông y Việt Nam đã có những bước phát triển và ngày càng có vị trí quan trọng trong nền y học cách mạng Việt Nam. Góp phần làm nên những thắng lợi to lớn về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của nhân dân ta trên con đường phát triển và hội nhập.
Nền Đông y Việt nam ra đời từ rất sớm. Từ thủa vua Hùng dựng nước, tổ tiên ta đã biết sử dụng 100 vị thuốc và châm cứu để chữa bệnh. Năm 1010 Lý Công Uẩn dời đô về Thăng long, các vị vua anh minh nhà Lý lập ra Ty thái y để chăm sóc sức khỏe cung đình, từ đó Đông y đã trở thành nền y học chính thống của các triều đại Nhà nước phong kiến Việt nam.
Từ thế kỷ thứ XIII đến thế kỷ XIX có 59 danh y đã để lại cho đất nước và các thế hệ sau 61 tác phẩm với những pho sách quý về lý luận cơ bản Đông y, các phương pháp chữa bệnh về nội khoa, ngoại khoa, thương khoa, nhi khoa, phụ khoa, ngũ quan, các phương pháp phòng bệnh, dưỡng sinh và đặc biệt là 9 điều y huấn cách ngôn hướng dẫn đạo đức cho người làm thuốc. Tên tuổi và sự nghiệp các bậc danh y Tuệ Tĩnh, Hải thượng Lãn ông Lê Hữu Trác, Hoàng Đôn Hòa, Nguyễn Đại Năng, Đào Công Chính, Phạm Công Bân, Chu Văn An  mãi mãi là những tinh hoa rực rỡ của nền y học dân tộc Việt Nam.
Thời kỳ Pháp thuộc, mặc dù bị Thực dân Pháp cấm đoán, nhưng Đông y vẫn khám chữa bệnh chăm sóc sức khỏe cho nhân dân.
Cách mạng Tháng 8-1945 thành công, nước nhà độc lập, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh 52 về thành lập các tổ chức hội.
Ngày 22 tháng 8 năm 1946 Chính phủ Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành Nghị định số 337/NĐ-NV cho phép thành lập Hội nghiên cứu Nam dược (tiền thân Hội Đông y Việt Nam ngày nay).
Để góp phần tích cực vào công cuộc kháng chiến kiến quốc Hội được đổi tên là Hội Đông y cứu quốc; Tiếp đó là Hội Đông y cứu quốc Nam bộ, Hội Đông y cứu quốc tỉnh Quảng ngãi, Hội Đông y cứu quốc tỉnh Thanh Hóa được thành lập và đi vào hoạt động.
Trong kháng chiến chống pháp, với tinh thần tự lập, tự cường Đảng ta chủ trương dùng Đông y để chữa bệnh cho cán bộ, bộ đội và nhân dân; Năm 1948 đã lập Ban Nghiên cứu Đông y ở Bộ Y tế, sau đó đến các liên khu và các địa phương.
Một số tỉnh thuộc Liên khu 4 đã có xưởng bào chế, chế biến các loại thuốc cao đơn, hoàn tán, điều trị sốt rét, ỉa chảy và nhiều loại thuốc khác.           Ở Quảng Ngãi hội Đông y tỉnh đã bào chế thuốc điều trị bệnh phù thũng, kiết lỵ, đau bụng. Ở Nam bộ đã xây dựng “toa căn bản” gồm 10 vị thuốc nam chữa bệnh cho bộ đội và nhân dân rất có hiệu quả, biên soạn cuốn “dược tính thuốc nam” và “cơ bản thuốc Nam” để phổ biến rộng rãi trong nhân dân. Liên khu 3 đã thành lập HTX sản xuất nhiều loại thuốc để phòng bệnh, chữa bệnh cho nhân dân  các tỉnh Hà Nam, Ninh Bình, Thái Bình…Hội Đông y cứu quốc Thanh Hóa đã mở các lớp hấn luyện Đông y phục vụ nhân dân và phục vụ các đoàn dân công hỏa tuyến.
Năm 1954 cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp thắng lợi, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng. Căn cứ sắc lệnh 52/SL của Chủ tịch nước Bộ Nội vụ thay mặt Chính phủ ban hành Nghị định 399/NV-DC/NĐ ngày 3 tháng 6 năm 1957 cho phép tái thành lập Hội Đông y ở 32 tỉnh thành phố từ Vĩnh Linh trở ra với 4 cấp hội từ Trung ương đến cơ sở.
Ngày 27 tháng 2 năm 1955 trong thư gửi cán bộ, nhân viên ngành y tế Bác Hồ đã căn dặn”Cha ông ta ngày trước có nhiều kinh nghiệm quý báu về cách chữa bệnh bằng thuốc ta, thuốc bắc. Để mở rộng phạm vi y học các cô các chú nên chú trọng nghiên cứu và phối hợp thuốc “đông”  và thuốc “tây”.
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ngay từ những ngày đầu Hội Đông y Việt Nam đã cử các hội viên Đông y có nhiều kinh nghiệm sử dụng thuốc nam tổ chức hướng dẫn cho cán bộ, bộ đội tại Chùa Bộc, Hà Nội đi công tác chiến trường biết nhận dạng một số cây thuốc trong rừng để chữa bệnh sốt rét, ỉa chảy, cảm cúm và các bệnh khác…Trung ương Hội đã chỉ đaọ các địa phương xây dự, củng cố, phát triển tổ chức hội; phối hợp cùng ngành y tế chăm sóc bảo vệ sức khỏe bộ đội, nhân dân góp phần làm nên thắng lợi vĩ đại của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.
Kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, nước nhà hoàn toàn độc lập, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị 118/CT/TW ngày 30 tháng 9 năm 1981 v/v “Củng cố tổ chức và tăng cường công tác của Hội y học cổ truyền (Hội Đông y) Việt nam trong thời kỳ mới”.Chỉ thị nhấn mạnh việc kiện toàn Ban chấp hành Trung ương Hội để đủ sức lãnh đạo công tác Hội trong cả nước, thành lập Hội ở ba cấp, tỉnh (thành), huyên(quận, thị xã) và xã (phường) tại các địa phương mới được giải phóng.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam các khóa từ khóa III đến khóa XI luôn đánh giá cao vai trò của Đông y, Đảng chủ trương phát triển nền Đông y Việt Nam để chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng.
Bước sang thời kỳ đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt nam, nhiều Chỉ thị, Nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được ban hành:
Nghị quyết 46/NQ-TW của Bộ Chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân  trong tình hình mới đã ghi:’ Đẩy mạnh việc nghiên cứu thừa kế, bảo tồn và phát triển y dược học cổ truyền  thành một chuyên ngành khoa học”, “vận động khuyến khích và hướng dẫn nhân dân nuôi trồng và sử dụng các cây con làm thuốc”.
Quyết định số 222/QĐ-TTg ngày 3/11/2003 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chính sách quốc gia về y dược cổ truyền đến năm 2010.
Chỉ thị 24/CT-TW ngày 4/7/2008 của Ban Bí thư Trung ương về “Phát triển nền Đông y Việt nam và Hội Đông y Việt Nam trong tình hình mới”.
Nghị định 45/NĐ- CP ngày 21/4/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức quản lý hội. Quyết định số 68/QĐ- TTg ngày 01/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ công nhận một số hội có tính chất đặc thù trong đó có Hội Đông y Việt Nam.
Quyết định 2166/QĐ-TTg ngày 30/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ ban hành “Kế hoạch hành động của Chính phủ về phát triển y dược cổ truyền Việt nam đến năm 2020”.
Hội Đông y Việt nam đã tổ chức cho các cấp hội và hội viên học tập, quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện có hiệu quả các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước
Về tổ chức hội: Đến nay đã có 62/63 tỉnh, thành hội, 90 % số quận, huyện, thị ; 82,3 %  số xã, phường, thị trấn đã có tổ chức hội hoạt động. Tổng số hội viên trong cả nước tính đến tháng 12 năm 2010 là gần 70.000 hội viên gồm trên 40 dân tộc, không phân biệt các thành phần tôn giáo, các tầng lớp giai cấp trong xã hội Việt Nam. Khối chi hội trực thuộc Trung ương hội gồm 30 đơn vị bao gồm các cơ sở khám, chữa bệnh, đào tạo, sản xuất thuốc, nghiên cứu khoa học thuộc lĩnh vực đông y, đông dược.
Hội Đông y Việt nam là một tổ chức xã hội - nghề nghiệp mang tính chất đặc thù, với hệ thống tổ chức hội rộng lớn, hoàn chỉnh ở cả 4 cấp hội từ Trung ương đến cơ sở xã, phường.
- Hội thường xuyên đào tao, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn tay nghề cho đội ngũ cán bộ, hội viên, không ngừng trau dồi phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, phấn đấu giỏi về y lý, tinh thông về y thuật trong sáng về y đức đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh, bảo vệ, chăm sóc sức khỏe ngày càng cao của các tầng lớp nhân dân nhất là đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn.
- Tổ chức tốt công tác khám chữa bệnh, thừa kế những môn thuốc hay, những cây thuốc quý của các ông lang, bà mế, lương y có tay nghề cao, người có bài thuốc gia truyền chữa bệnh hiệu quả.
- Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, tu thư biên dịch, tuyên truyền phổ biến, kết hợp Đông y với tây y, từng bước xã hội hóa chăm sóc sức khỏe nhân dân.
     - Tăng cường hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội, tham gia đóng góp ý kiến xây dựng các chủ trương chính sách của Đảng, nhà nước liên quan đến đông y đông dược.
         -  Phối hợp cùng ngành y tế thực hiện có hiệu quả công tác chăm sóc bảo vệ sức khỏe nhân dân, kế thừa, phát huy, phát triển  nền Đông y nước nhà, bảo tồn một bộ phận di sản văn hóa dân tộc.Phấn đấu thực hiện mục tiêu “Phát triển y dược cổ truyền Việt Nam đến năm 2020 ” của chính phủ là khám chữa bệnh bằng y dược cổ truyền đến năm 2015 tuyến Trung ương đạt 10%, tuyến tỉnh đạt 15 %, tuyến huyện 20 %, tuyến xã đạt 30%. Đến năm 2020 Trung ương đạt 15 %, tuyến tỉnh đật 20 %, tuyến huyện 25 % và tuyến xã phải đạt 40%. Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng Nền Y học Việt Nam khoa học - dân tộc - đại chúng, thiết thực phục vụ sức khỏe nhân dân, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh

Sự hình thành và phát triển Ngành Đông Y Tại T.P.Hội An
-: Đô thị cổ Hội An, từ thế kỷ XVI, XVII, từng là tụ điểm của ngành Đông y ở Đàng Trong. Hàng hóa xuất nhập tại đây có nhiều loại dược liệu quý, thường được gọi bằng cái tên dân dã là thuốc Bắc nếu nhập từ Trung Quốc, hoặc thuốc Nam nếu là hàng nội địa. Vào thời kỳ ấy, dọc các đường Trần Phú, Nguyễn Thái Học, Hoàng Văn Thụ, Lê Lợi ngày nay có nhiều tiệm thuốc Bắc, thuốc Nam cùng nhiều thầy thuốc giỏi. Những kinh nghiệm chữa trị của các thầy thuốc ở Hội An đã góp phần đáng kể để phát triển nghề y cổ truyền của địa phương cũng như của Quảng Nam, Đàng Trong. Hoạt động điều trị ở đây bao gồm các khâu liên hoàn từ bắt mạch, kê đơn, bốc thuốc, điều chế hoặc trồng hái cây lá thuốc... Nhiều tư liệu cho biết, ngay tới tận đầu thế kỷ XX, khi ngành Tây y chưa phổ biến, người dân khắp nơi đã đổ về phố Hội An cắt thuốc, chữa bệnh rất đông đảo. Trải qua bao biến đổi của thời gian, và thay đổi thói quen của con người, ngày nay, Hội an là thành phố trực thuộc tỉnh Quảng Nam 
 Ngành Đông y cổ truyền ở Hội An.đã qua VII nhiệm kỳ hoạt động.Đến nay vẫn được trân trọng, duy trì, ngày càng có xu hướng phát triển và có uy tín lớn không những đối với nhân dân địa phương mà còn đối với khá nhiều du khách từng bắt mạch bốc thuốc chữa bệnh trên địa bàn  
    Năm đầu tiên BCH nhiệm kỳ VII với 15 Thành viên được thành lập , Hội Đông y Hội An hiện có 61 hội viên sinh hoạt tại 8 chi hội, gồm: 1 bác sĩ, 3 Lương Y đa khoa; 15 Lương y chuyên khoa nội,30 Lương Y thừa kế;3 Lương y châm cứu; 3 lương dược ;3 y sĩđịnh hướng YHCT và 3 trung cấpYHCT. Trong năm 2012, trên địa bàn có 25 phòng khám Đông y và 3 cơ sở Đông dược; đã khám chữa bệnh cho 19.216 và 48.073 lượt người khám bệnh, sử dụng 83.867 thang thuốc, 428kg bột dược liệu , 2.157kg hoàn dược;323lít thuốc nước; thực hiện 2.146 lượt chữa bệnh bằng phương pháp châm cứu,127 lượt day bấm huyệt bệnh đơn giản … Tổng giá trị thuốc đã dùng quy ra tiền:5.2 tỷ đồng.
   Năm 2013 Hội đông y thành phố Hội an đề ra phương hướng hoạt động sau :
 _Củng cố tổ chức-xây dựng, phát triển mạng lưới Hội.
 _Bồi dưỡng-thừa kế-nghiên cứu chuyên môn
 _Nâng cao hoạt động khám chữa bệnh.
 _Trồng và sử dụng cây thuốc nam
 _Tăng cường công tác :Đền ơn Đáp nghĩa-Từ thiện xã hội ,xây dựng nhà đại đoàn kết.
 _Phối hợp truyền thông , đẩy mạnh tài chính,hưởng ứng thi đua và chia sẻ tinh thần tương thân tương ái trong tổ chúc Hội.

                                                                   V.M tổng hợp từ các tư liệu.

Thứ Năm, 15 tháng 8, 2013

Thực liệu cổ truyền phương Ðông

Tác giả : Thạc sĩ HOÀNG KHÁNH TOÀN (Khoa Ðông y - Viện Quân y 108)

Trong mươi năm trở lại đây các phương pháp phòng trị bệnh và nâng cao sức khỏe của y học cổ truyền có liên quan đến ăn uống đã được đề cập khá nhiều trong sách báo và trên các phương tiện thông tin đại chúng. Bạn đọc dần được làm quen với các khái niệm như ẩm thực liệu pháp, ẩm thực dưỡng sinh, dược thiện, cháo thuốc, trà dược, rượu thuốc, món ăn - bài thuốc... Nhưng không phải ai cũng biết rằng tất cả các loại hình trị liệu này đều nằm trong một bộ phận cấu thành trọng yếu của nền y học cổ truyền phương Ðông được gọi là ẩm thực liệu pháp, nói tắt là thực liệu.

THỰC LIỆU LÀ GÌ?

Thực liệu, còn gọi là thực trị (dietetic therapy), là phương pháp căn cứ theo lý luận của y học cổ truyền tiến hành lựa chọn các thực phẩm phù hợp (đơn thuần hoặc phối ngũ với các vị thuốc) để gia công chế biến thành các đồ ăn thức uống, hướng dẫn rèn luyện thói quen và nếp vệ sinh ăn uống hợp lý nhằm mục đích phòng chống bệnh tật, bảo vệ và nâng cao sức khỏe. Như vậy, theo quan điểm của y học cổ truyền, lương thực và thực phẩm không chỉ có tác dụng chủ yếu là nuôi dưỡng cơ thể mà còn có công dụng chữa bệnh. Hay nói cách khác, đồ ăn thức uống bản thân vốn dĩ đã mang đủ giá trị về cả hai phương diện "Dưỡng" và "Liệu" với mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau. Sách cổ viết: "Thực vật, bệnh nhân phục chi, bất dãn liệu bệnh, tính khả sung cơ. Bất dãn sung cơ, cánh khả thích khẩu. Dụng chi đối chứng, bệnh tự tiệm dụ, tức bất đối chứng, diệc vô tha hoạn" (Ðồ ăn thức uống không chỉ để ăn cho no mà còn dùng để chữa bệnh, dùng đúng thì bệnh tự khỏi dần).
Thực liệu học cổ truyền là một môn khoa học chuyên nghiên cứu về tác dụng và qui luật ứng dụng các đồ ăn thức uống trong việc phòng chống bệnh tật và bảo vệ sức khỏe con người. Khác với dinh dưỡng học và vệ sinh học hiện đại, thực liệu học cổ truyền lấy lý luận Ðông y làm cơ sở để tiến hành nghiên cứu về tính vị, công năng, cách chế biến, cách ăn, kiêng kỵ, cách phối ngũ và chỉ định điều trị của các loại đồ ăn thức uống nhằm mục đích điều hòa khí huyết, cân bằng âm dương, phục hồi chức năng của tạng phủ kinh lạc. Ðồng thời còn hướng dẫn thực hành các liệu pháp dưỡng sinh ẩm thực, vệ sinh ăn uống hợp lý...

THỰC LIỆU CÓ TỪ BAO GIỜ?

Thực liệu cổ truyền phương Ðông đã có một lịch sử rất lâu đời. Ở Trung Quốc, truyền thuyết xa xưa đã kể chuyện Thần Nông, người phát minh ra nông nghiệp và Ðông dược, từng nếm hàng trăm cây cỏ làm thuốc và làm thức ăn để biết được tính vị của chúng. "Thần nông bản thảo kinh", cuốn sách thuốc cổ nhất còn lưu lại đến nay đã ghi lại 365 vị thuốc, được phân ra làm ba loại thượng, trung và hạ phẩm, trong đó đại bộ phận thượng phẩm chính là các loại lương thực, rau quả và thịt cá thường dùng làm thức ăn hàng ngày. Ðời Ðường, trong sách "Thiên kim yếu phương", y gia trứ danh Tôn Tư Mạo cũng đã dành một chương "Thực trị Thiên" để bàn về thực liệu và cuốn "Thực liệu bản thảo" của Mạnh Sằn với nội dung tổng kết những thành tựu về thực trị trước đó đã được coi là tác phẩm viết về thực liệu sớm nhất còn lưu đến ngày nay. Ðời Tống, Trần Trực đã bàn đến việc dùng dược thiện trị bệnh cho người cao tuổi trong sách "Dưỡng lão thân thân thư". Ðời Nguyên, cuốn "Ẩm thực chính yếu" của thái y cung đình Hốt Tư Tuệ là một tác phẩm nổi tiếng đề cập đến các vấn đề như ẩm thực dưỡng sinh, dinh dưỡng liệu pháp, vệ sinh ăn uống, ngộ độc thực phẩm, kiêng kị khi có thai... Rồi theo dòng chảy của lịch sử, các tác giả và tác phẩm bàn về thực liệu lần lượt ra đời như Chu Ðệ với "Cầu hoang bản thảo", Lý Thời Trân với "Bản thảo cương mục" (đời Minh), Cao Liêm với "Tuân sinh bát tiên", Vương Mạnh Anh với "Tùy tức cư ẩm thực phổ" (đời Thanh)...
Ở Việt Nam, ngay từ thời Hồng Bàng (2.900 năm trước Công nguyên), cha ông ta đã biết dùng thức ăn để làm thuốc. Tác dụng của củ gừng, củ tỏi... đã được phát hiện với mục đích làm cho các món ăn hết tanh, có mùi vị thơm ngon, ấm bụng và dễ tiêu, đã biết ăn trầu để chống lạnh và giữ cho răng bền chắc... Trong các tác phẩm của mình, Tuệ Tĩnh và Hải Thượng Lãn Ông đã ghi lại nhiều loại ngũ cốc, thực phẩm dùng làm thuốc và có những kiến giải hết sức độc đáo về thực trị. Hai cuốn "Vệ sinh yếu quyết" và "Nữ công thắng lãm" của cụ Hải Thượng có thể coi là những tác phẩm nổi tiếng viết về thực dưỡng và thực trị.

THỰC LIỆU CÓ NHỮNG ÐẶC ÐIỂM GÌ?

Thực liệu cổ truyền phương Ðông tùy theo điều kiện lịch sử, địa lý, kinh tế, văn hóa, tập quán của mỗi dân tộc mà có những nét đặc sắc khác nhau, song đều chứa đựng những đặc điểm nổi bật sau đây:
- Nội dung rất phong phú: Vì có lịch sử hàng nghìn năm tồn tại và phát triển nên thực liệu cổ truyền đã tích lũy được một kho tàng kinh nghiệm rất lớn và quý báu. Hơn nữa, giữa các dân tộc, các quốc gia lại có sự giao lưu và trao đổi rộng rãi, đặc biệt trong những thế kỷ gần đây được bổ sung và soi sáng bởi dinh dưỡng học hiện đại nên nội dung của nó ngày càng phong phú và có sự chuyển biến về chất.
- Hệ thống kết cấu hoàn chỉnh: Thực liệu cổ truyền không chỉ đề cập đến việc trị liệu bệnh tật mà còn bao gồm cả các vấn đề như thực dưỡng, vệ sinh ăn uống, ẩm thực kiêng kỵ, ẩm thực bảo kiện, ẩm thực bào chế... Tất cả tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh.
- Cơ sở lý luận vững chắc: Thực liệu cổ truyền không chỉ là những kinh nghiệm thực tiễn đơn thuần mà còn là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền y học cổ truyền Ðông phương, được xây dựng dựa trên cơ sở lý luận Ðông y vững chắc. Cũng như các vị thuốc, đồ ăn thức uống cũng có tính vị cụ thể, qui kinh rõ ràng, phương thức sử dụng biện chứng dựa trên cơ sở lý luận âm dương, ngũ hành, tạng phủ kinh lạc, tứ chẩn bát cương...

NGUYÊN TẮC CHỦ YẾU CỦA THỰC LIỆU LÀ GÌ?

Thực liệu cổ truyền có bốn nguyên tắc chính:
1/Ẩm thực hữu điều: Nghĩa là ăn uống phải điều độ, hợp lý, không thái quá, không bất cập. Trong "Vệ sinh yếu quyết", Hải Thượng Lãn Ông đã dẫn lời của cổ nhân: "Người biết dưỡng sinh thì uống trước khi khát nhưng không uống quá nhiều, ăn trước khi đói nhưng không ăn quá no. Nên ăn ít mà ăn nhiều lần, không nên ham ăn nhiều mà khó chịu. Thường nên để trong cái no có một chút đói, chứ không nên để trong cái đói có một chút no".
2/Biện chứng thi trị: Nghĩa là phải xem xét tỉ mỉ, tùy thể chất, chứng trạng, mạch tượng... mà phân biệt âm dương, biểu lý, hàn nhiệt, hư thực rồi trên cơ sở đó chỉ định lựa chọn, chế biến, sử dụng đồ ăn thức uống cho phù hợp. Ví dụ: Người có chứng tỳ vị hư hàn thì phải trọng dùng đồ ăn có tính ấm nóng, người bị liệt dương thể âm hư thì phải trọng dùng đồ ăn thức uống có công năng dưỡng âm...
3/Dược thiện kết hợp: Nghĩa là trong việc trị bệnh và bảo kiện sức khỏe phải chú ý kết hợp chặt chẽ giữa ăn uống và dùng thuốc một cách hợp lý tùy theo tính chất và giai đoạn bệnh lý. Cổ nhân có nói: "Dược thực đồng nguyên", "Ngụ y vu thực". Cũng cần phải thấy rằng thực liệu chỉ là một phương pháp trị liệu có tính phụ trợ, trong nhiều trường hợp nó không thể thay thế việc dùng thuốc đặc trị thường quy.
4/Tam nhân chế nghi: Nghĩa là tùy người (nhân nhân), tùy điều kiện địa lý và môi trường sống (nhân địa) và tùy mùa, tùy thời gian (nhân thời) mà lựa chọn, chế biến và sử dụng đồ ăn thức uống cho phù hợp nhằm đạt hiệu quả cao nhất và phòng tránh các tác dụng phụ không mong muốn.

http://www.youtube.com/watch?v=KW3vLFc27Ws

Trinh nữ hoàng cung – Vị thuốc quý

Trinh nữ hoàng cung là vị thuốc được nhân dân ta thường dùng để điều trị một số bệnh của phụ nữ rất hiệu quả, trong đó có u xơ tử cung.

  
Trong Y học cổ truyền Việt Nam, từ lâu trinh nữ hoàng cung đã được coi là vị thuốc quý. Trước đây, trinh nữ hoàng cung chỉ được dành riêng cho hoàng tộc, vì thế nó thường được gọi với các tên như "cây thuốc của hoàng cung" hay "cây thuốc dành cho nữ giới trong hoàng cung".

Nhiều nghiên cứu cả trong và ngoài nước đã chứng minh trinh nữ hoàng cung có chứa 32 loại alkaloids, trong đó một số alkaloids có tác dụng chống sự phát triển của tế bào khối u, kháng khuẩn,… từ đó giúp phòng ngừa và điều trị các bệnh như u nang buồng trứng, u xơ tử cung, tăng cường sức khỏe, miễn dịch, đẩy lùi những rối loạn ở nữ giới.

Sau đây là một số bài thuốc đơn giản, hiệu quả từ cây trinh nữ hoàng cung:

Bài thuốc dùng trong hỗ trợ điều trị các bệnh ung thư vú, ung thư cổ tử cung, ung thư tuyến tiền liệt: Lá trinh nữ hoàng cung thái nhỏ, sao vàng sắc uống: mỗi ngày dùng 3-5 lá.

Bài thuốc chữa u nang buồng trứng, u xơ tử cung và u tuyến tiền liệt:Ba lá trinh nữ hoàng cung tươi, thái ngắn từ 1 đến 2 cm, sao khô đến khi có màu hơi vàng, đem sắc với nước, uống thành 3 đợt, mỗi đợt 7 ngày, thời gian nghỉ giữa hai đợt là 7 ngày.

Cây trinh nữ hoàng cungCây trinh nữ hoàng cung

Tác dụng chữa bệnh u xơ tử cung, u nang buồng trứng, phì đại tuyến tiền liệt càng được tăng cường khi trinh nữ hoàng cung được sử dụng làm thành phần chính phối hợp với các dược liệu quý khác như: hoàng kỳ, hoàng cầm, khương hoàng để bào chế ra viên nang thực phẩm chức năng Nga Phụ Khang. Sản phẩm này có tác dụng ức chế phát triển của tế bào khối u, thu nhỏ kích thước khối u; giúp tăng cường hệ miễn dịch, phòng ngừa và hỗ trợ điều trị u xơ tử cung, u nang buồng trứng hiệu quả mà bệnh nhân không cần phải đun sắc cầu kỳ.

Bên cạnh duy trì sử dụng các bài thuốc từ cây trinh nữ hoàng cung, bệnh nhân u xơ tử cung cần giữ tâm lý thoải mái, lạc quan, thực hiện khám sức khỏe định kỳ để được bác sĩ theo dõi và có hướng điều trị thích hợp.


Thanh Hoa

Tư vấn trực tuyến chăm sóc sức khỏe trí não cho người lớn tuổi

14h ngày 16/8, GS. Jean-Pierre Michel, một trong những người sáng lập Học viện Y học lão khoa châu Âu (EAMA) và bác sĩ Từ Ngữ, Tổng thư ký Hội Dinh dưỡng VN sẽ tư vấn cho độc giả VnExpress cách chăm sóc sức khỏe trí não cho người lớn tuổi.
Độc giả đặt câu hỏi tại đây
Cùng tốc độ nền kinh tế, người Việt cũng ngày càng quan tâm hơn đến chất lượng cuộc sống, nhất là đối với người già. Theo giới chuyên gia, một trong những yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cuộc sống của người cao tuổi là sự suy giảm trí nhớ trong quá trình lão hóa. Các nhà khoa học đã chỉ ra rằng trong quá trình phát triển của con người, mỗi ngày khoảng 3.000 tế bào thần kinh bị hủy diệt, không được thay thế.
foto_JPMichel.jpg
GS. Jean-Pierre Michel.
Bên cạnh đó, càng lớn tuổi, cơ thể càng ít tạo ra các chất trung gian cần thiết tạo cho não hoạt động. Sự lão hóa nhanh của tế bào thần kinh dẫn đến bệnh lý suy giảm trí nhớ. Tuy nhiên, quá trình lão hóa này có thể được can thiệp nếu biết áp dụng một chế độ dinh dưỡng hợp lý và giàu những dưỡng chất tốt cho não bộ kết hợp lối sống lành mạnh, hạn chế những thói quen xấu, vận động tập thể dục đều đặn, nhất là đối với những người lớn tuổi.
Do vậy, việc xây dựng và duy trì một chế độ dinh dưỡng lành mạnh, phù hợp, chú trọng vào những dưỡng chất và vitamin là cần thiết giúp ngăn ngừa, đẩy lùi bệnh tật...
14h chiều ngày 16/8, hai chuyên gia đầu ngành về y học lão khoa và dinh dưỡng sẽ có mặt tại tòa soạn VnExpress để chia sẻ cùng độc giả các bí quyết, kinh nghiệm cải thiện sức khỏe, trí nhớ cho người lớn tuổi.
tien_si_Tu_Ngu.jpg
Bác sĩ Từ Ngữ.
Giáo sư Jean-Pierre Michel là bác sĩ danh dự y học của Đại học Geneva (Thụy Sĩ), Đại học Limoges (Pháp) và Bệnh viện Đại học Bắc Kinh (Trung Quốc). Ông cũng là người đồng sáng lập Học viện Y học lão khoa châu Âu (EAMA). Giáo sư Jean-Pierre Michel là người có bề dày chuyên môn về vấn đề suy giảm trí nhớ và nhận thức của người già. Ngoài ra, bác sĩ Từ Ngữ, Tổng thư ký Hội Dinh dưỡng Việt Nam cũng tư vấn thêm cho độc giả biết cách giúp làm chậm quá trình này lão hóa trí não bằng lối sống và dinh dưỡng khoa học.
Độc giả gửi câu hỏi tại đây để được các chuyên gia tư vấn.
Phương Thảo

Thứ Ba, 13 tháng 8, 2013

Tỏi sống giúp giảm gần 50% nguy cơ ung thư phổi

Tỏi sống giúp giảm gần 50% nguy cơ ung thư phổi
(Dân trí) - Theo một nghiên cứu mới đây, ăn tỏi sống 2 lần/tuần có thể giúp giảm gần 50% nguy cơ mắc ung thư phổi.
Tỏi sống giúp giảm gần 50% nguy cơ ung thư phổi
 

Một nghiên cứu được thực hiện tại Trung Quốc phát hiện ra rằng người trưởng thành thường xuyên ăn tỏi sống trong khẩu phần ăn uống giảm 44% nguy cơ mắc bệnh.

Ngay cả khi các nhà nghiên cứu cho phép mọi người hút thuốc (nguyên nhân chính gây ung thư phổi) thì họ phát hiện rằng tỏi vẫn có thể giúp giảm khoảng 30% nguy cơ mắc bệnh.

Mỗi năm, chỉ tính riêng tại Anh và xứ Wales có khoảng 40.000 người được chẩn đoán mắc ung thư phổi.

Hút thuốc được cho là nguyên nhân gây ra ít nhất 80% trường hợp mắc bệnh. Chỉ có gần 1/10 số bệnh nhân vẫn còn sống 5 năm sau khi được chẩn đoán mắc bệnh.

Các nghiên cứu trước đây đã cho thấy tỏi có thể bảo vệ phổi chống lại nhiều nguy cơ mắc bệnh khác nhau cũng như tránh được các bệnh ác tính như ung thư ruột.

Một nghiên cứu tại Đại học Nam Úc đã cho thấy tỏi có thể làm giảm gần 1/3 nguy cơ xuất hiện các khối u trong ruột.

Trong cuộc điều tra mới nhất, các nhà khoa học đến từ Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh tỉnh Giang Tô đã so sánh 1.424 bệnh nhân ung thư phổi với 4.500 người trưởng thành khỏe mạnh. Mỗi người đều được hỏi về thói quen ăn uống và lối sống của họ, bao gồm cả mức độ thường xuyên ăn tỏi và hút thuốc lá.

Các kết quả nghiên cứu cho thấy những người ăn tỏi sống ít nhất 2 lần/tuần giảm đáng kể nguy cơ mắc ung thư phổi, ngay cả khi họ hút thuốc lá hoặc tiếp xúc với hơi dầu ăn ở nhiệt độ cao (được cho là một nguyên nhân khác dẫn tới việc mắc căn bệnh này).

Chưa có kết luận về việc tỏi nấu chín có tác dụng tương tự như vậy hay không. Nghiên cứu trước đây đã cho thấy thành phần quan trọng dường như là một chất hóa học được gọi là allicin, giải phóng khi tỏi được nghiền hoặc băm nhỏ.

Allicin được cho là làm giảm tình trạng viêm trong cơ thể và hoạt động như một chất chống oxy hóa, làm giảm mức độ tổn thương do các gốc tự do gây ra đối với các tế bào của cơ thể.

Các nghiên cứu khác đã phát hiện ra rằng allicin có thể giúp tránh cảm lạnh thông thường, siêu vi khuẩn bệnh viện và thậm chí là cả bệnh sốt rét.

Trong một báo cáo về những phát hiện của họ, các nhà nghiên cứu cho biết: “Tỏi có thể có khả năng đóng vai trò như một tác nhân phòng ngừa ung thư phổi”.

Các kết quả của nghiên cứu này được công bố trực tuyến trên tạp chí Nghiên cứu phòng chống ung thư.

Hùng Cường

Chủ Nhật, 11 tháng 8, 2013

NGHỊ ĐỊNH CHO PHÉP HỘI ĐÔNG Y VIỆT NAM THÀNH LẬP

BỘ NỘI VỤ
******
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
Số: 399-NV-DC-NĐ
Hà Nội, ngày 03 tháng 06 năm 1957 

NGHỊ ĐỊNH
CHO PHÉP HỘI ĐÔNG Y VIỆT NAM THÀNH LẬP
-----------------------
BỘ TRƯỞNG BỘ NỘI VỤ
Chiếu sắc lệnh số 52 ngày 22 tháng 4 năm 1946 quy định việc lập hội;
Chiếu đơn ngày 11 tháng 5 năm 1957 của “HỘI ĐỒNG Y VIỆT NAM” và bản điều lệ của hội ấy.

NGHỊ ĐỊNH:
Điều 1. - “HỘI ĐÔNG Y VIỆT NAM” được phép thành lập và hoạt động trong phạm vi luật lệ hiện hành.
Điều 2. -  Các ông Chánh văn phòng, ông Giám đốc Vụ Dân chính Bộ Nội vụ và ông Chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội chiếu nghị định thi hành.



                                                              K. T.  BỘ TRƯỞNG BỘ NỘI VỤ
                                                          THỨ TRƯỞNG




                                                         Tô Quang Đẩu