Thứ Bảy, 19 tháng 5, 2012

CHI HỘI - HỘI VIÊN

CHI HỘI CẨM PHÔ
Thực hiện theo tinh thần thông báo của hội đông y thành phố .Chi hội Cẩm Phô đã hoàn thành tốt việc vận đông xây dựng quỹ hội năm 2012 . Chi hội trưởng L.Y.Nguyễn Viết Di tâm sự:" Tôi già rồi nhưng việc vận động cho hội vững mạnh toàn diện ,mặc dầu khó khăn nhưng tôi đã hoàn thành và rất lấy làm vui"

Thứ Hai, 7 tháng 5, 2012

THỨC ĂN HÀNG NGÀY VÀ SỨC KHOẺ


THỨC ĂN HÀNG NGÀY VÀ SỨC KHOẺ

1) Nhức đầu ư ? - Ăn cá : Ăn nhiều cá vào, dầu trong cá giúp ngừa nhức đầu . Gừng cũng thế, nó làm hạ nhiệt và cơn đau
2) Bị sốt sốt mùa cỏ khô, sốt mùa hè - Ăn sữa chua (ya ua ) : Ăn nhiều sữa chua trước mùa phấn hoa . Cũng thế, hàng ngày ăn mật ong tại vùng bạn ở
3)Tránh đột quỵ - Uống trà: Tránh mỡ đọng vào thành động mạch bằng cách uống trà thường xuyên (Chính ra thì trà làm giảm sự thèm ăn và kìm hãm sự tăng cân …Trà xanh còn tốt cho hệ thống miễn nhiễm của chúng ta nữa .)
4) Bị chứng mất ngủ - Mật ong : Dùng mật ong như là 1 thứ thuốc làm đỡ đau và giảm thống.
5) Suyễn – Ăn hành : Ăn hành giúp sự co thắt của cuống phổi dễ dàng hơn (hồi tác giả còn bé , người mẹ đã làm 1 túi hành và đặt vào ngực con , giúp cơ quan hô hấp diều hoà và thực sự là có làm cho dễ thở Hơn)
6) Viêm khớp – Cũng an cá nữa: Cá Hồi , cá Ngừ, cá Thu, và cá Mòi thực sự là làm giảm viêm khớp (Cá có dầu omega tốt cho hệ thống miễn nhiễm của chúng ta)
7) Rối loạn bao tử / Ăn không tiêu? – Chuối và Gừng : Chuối sẽ làm ổn định bao tự. Gừng thì trị chứng buồn nôn và uể oải buổi sáng .
8) Nhiễm trùng/Viêm bọng đái? – Hãy uống nước cốt Nam việt quất (Cranberry juice)
9) Xương xóc có vấn để – Ăn dứa !!!: Chất Man-gan trong dứa có thể giúp tránh nứt, gãy xương .
10) Rối loạn tiền kinh nguyệt – Ăn sản phẩm từ bắp:Phụ Nữ có thể tránh được ảnh hưởng của thời tiền kinh nguyêt. Nó cũng làm giảm sự phiền não, âu lo, và bải hoải .
11) Rối loạn trí nhớ – Ăn con Hàu : Hàu cung cấp rất nhiều chất kẽm cần thiết giúp phát triển chức nang trí tuệ.
12) Bị nhiễm lạnh ư? – Ăn tỏi: Tỏi đánh tan nghẹt mũi (nhớ là tỏi cũng làm giảm lượng mỡ trong máu nữa)
13) Ho ư? – Dùng ớt đỏ cay !! Một chất căn bản tương tự thấy trong thuốc ho nước (xi-rô) cũng thấy trong ớt đỏ. Dùng ớt cay với liều lượng thích hợp sẽ làm khích thích bao tử
14) Ung thư vú? – Ăn lúa mì , cám , và bắp cải: Giúp duy trì khích thích tố nữ ở mức thích hợp
15) Ung thư phổi – Ăn các loại rau củ màu cam và xanh đậm !!! Chất giải dộc tốt là Bê ta caro tin, 1 dạng của vi ta min A được tìm thấy trong rau củ xanh đậm và cam .
16) Ung loét bao tử - Cũng chữa bằng bắp cải nữa !!! Bắp cải có chứa các hoá chất giúp làm lành ung loét bao tử và ruột .
17) Tiêu chảy – Ăn táo: Nướng 1 trái táo cả vỏ đến khi tao trỏ màu nâu rồi ăn, để chưa tiêu chảy (Chuối cũng tốt cho bệnh này)
18) Bị tắc nghẽn động mạch – Ăn trái bơ: Chất béo đơn không bão hoà trong trái bơ làm giảm lượng mỡ trong máu (cholesterol)
19) Bị cao máu (áp suất máu cao) – Ăn cần Tây và dầu Ô liu (Olive): Dầu ô liu cho thấy là làm giảm áp suất máu . Cần tây chứa hoá chất cũng làm giảm áp suất máu .
20) Lượng đường trong máu không cân bằng? – Ăn rau bông cải xanh (Broccoli) và đậu phộng . Chất Crôm ( Cr , hoá chất thứ 24) trong rau bông cải xanh và đậu phộng giúp điều hoà lượng đường trong máu và lượng In-su-lin
21) Trái Ki -Wi: Bé mà khoẻ - Đây là 1 nguồn dồi dào potassium (Kali , K , hoá chất thứ 19) , magnesium (Ma nhê, Mg, hoá chất thứ 12),
22) Táo: Một quả Táo mỗi ngày thì không cần phải đến bác sĩ nữa . Dù là trong 1 quả táo lượng Vitamin C thấp, nhưng có chất antioxidants & flavonoids làm gia tăng hiệu quả của Vitamine C, thế nên nó giúp là m giảm nguy cơ ung thư ruột già, truỵ tim, và đột quỵ
23) Dâu Tây: Trái cây phòng bệnh . Dâu Tây có năng lực trong việc antioxidant nhất trong các loại trái và bảo vệ cơ thể khỏi nguy cơ ung thư, tắc nghẽn mạch máu (Thực ra là bất cứ loại dâu nào cũng totvì^' chứa rất nhiều chất anti-oxidants giúp chúng ta trẻ Lâu … Dâu xanh (blueberries) là loại tốt nhất và rất hiệu quả trong lãnh vực bảo vệ sức khoẻ. Nó hoá giải tất cả những chất căn bản tấn công cơ thể chúng ta .
24) Cam: Loại thuốc ngọt ngào nhất . Dùng 2 đến 4 quả cam mỗi ngày có thể ngừa cảm lạnh, giảm cholesterol, chống và trị sạn thận cũng tốt như là làm giảm nguy cơ ung thư ruột kết .
25) Dưa Hấu: Món giải khát mát nhất , gồm 92% là nước . Nó cũng chứa 1 hàm lượng lớn glutathione giúp tăng khá năng miễn nhiễm của chúng ta . Nó cũng là nguồn cung cấp lycopene – yếu tố chống ung thư. Các chất dinh dưỡng khác cũng tìm thấy trong dưa hấu như Vitamin C & Potassium . Dưa hấu cũng có những diếu tố căn bản (nguồn SPF thiên nhiên) giúp cho da khoẻ mạnh , bảo vệ da khỏi những tia cao tần .
26) Ổi và Đu Đủ: Được giải quán quân về nguồn cung cấp Vitamine C . Ổi cũng giàu chất sơ giúp chông táo bón . Đu đủ thì nhiều carotene, rất tốt cho mắt. Cũng tốt cho no hơi sình bụng khó tiêu.
27) Cà Chua: Rất tốt như một biện pháp phòng ngừa cho đàn ông , tránh tình trạng kiệt sức từ sự suy nhược của cơ thể .



Rau cải cúc

Rau cải cúc còn được gọi là cải tần ô, rau cúc, rau tần ô... Là cây thảo sống hằng năm, lá ôm vào thân, xẻ lông chim hai lần. Cụm hoa ở nách lá, các hoa ở mép màu vàng sẫm, thơm. Mùa hoa vào tháng 1 - 3.  Rau cải cúc giàu dinh dưỡng như chứa 1,85% protid 2,57% glucid, 0,43% lipid và còn có nhiều vitamin A, B, C... Theo quan niệm Đông y, cải cúc có vị ngọt nhạt, hơi đắng, the, mùi thơm, tính mát, được xem như một loại rau giúp khai vị làm ăn ngon, giúp tiêu hoá, trừ đờm, tán phong nhiệt. Dùng lá tươi, hoặc đã phơi khô trong mát (âm can) không phơi nắng (làm mất tinh dầu thơm).


Một số bài thuốc đơn giản.


- Cháo giải cảm cúm (đau họng, ho, hơi sốt):
 Rau cải cúc tươi 200g, rửa thật sạch, để ráo nước, thái nhỏ, gạo tẻ 100g. Sau đó,  vo sạch gạo cho vào nồi, đổ vào 1000g nước rồi đun cháo nhừ, cho rau cải vào, thêm gia vị, ăn nóng. Ăn liền 3 ngày.

- Ho do lạnh ở trẻ em:
 Lá cải cúc 6g, rửa sạch, thái nhỏ, thêm ít mật ong hấp cách thủy cho ra nước để uống trong ngày. Dùng 3 - 5 ngày.

- Trị chứng đau đầu khi trời lạnh: Cải cúc khô 10 - 15g, đem sắc với 3 bát nước còn 1 bát. Ngày uống 2 lần, uống vào buổi sáng và tối sau bữa ăn. Dùng liên tục trong 5 - 7 ngày.

Hoặc dùng 1 nắm lá cải cúc tươi hơ nóng (bọc vào vải sạch, tránh bị nóng), dùng chườm đắp lên đỉnh đầu và 2 bên thái dương vào buổi tối trước khi đi ngủ khi bị đau đầu.

- Trị ăn uống không tiêu, người mới khỏi ốm, yếu:
 Cải cúc 500g, gừng tươi 3 lát, 100g thịt lợn nạc. Tát cả rửa sạch, thái nhỏ rau, thịt lợn, nấu thành canh, khi chín  nêm gia vị vừa đủ, ăn lúc còn nóng.

Chú ý: Không dùng cháo rau cải cúc cho người có thể trạng hư hàn, lạnh bụng, tiêu chảy.      

Theo SKDS



5 bài thuốc chữa bệnh của rau mùi tàu   rau ngò gai, 

Rau mùi tàu có khá nhiều công dụng như giảm đau, chữa hôi miệng, trị cảm cúm...
 
Rau mùi tàu, còn có tên gọi là rau ngò gai, cây mọc hoang, phổ biến ở nơi ẩm vùng đồi núi và cũng được trồng nhiều làm rau gia vị. Là cây thảo sống hàng năm hay vài năm, có thân mọc đứng, phân nhánh ở ngọn, cao 15 - 50 cm. Lá mọc sát đất thành hình hoa thị ở gốc, có phiến mỏng, thuôn, hình mũi mác, thon hẹp lại ở gốc, mép có răng cưa, hơi có gai. Lá ở thân càng lên càng ngắn, nhỏ dần, có nhiều răng cưa và gai sắc hơn. Hoa màu trắng lục, mọc thành tán. Quả hình cầu, hơi dẹp, có vẩy. Toàn cây có tinh dầu, nên có mùi thơm. Rau mùi tàu cho nhiều protid, glucid, cellulose, calcium, phosphor , sắt, vitamin B1 và vitamin C.

Để làm thuốc dùng toàn cây rau mùi (tươi hay phơi khô), thu hái quanh năm. Theo Y học cổ truyền rau mùi tàu có vị cay hơi đắng, thơm, tính ấm, có tác dụng sơ phong thanh nhiệt, kiệm tỳ, hành khí tiêu thũng, giảm đau.
 
Những bài thuốc thường dùng: 
Bài 1: Chữa hôi miệng: Lấy 1 nắm rau mùi tàu, rửa sạch, sắc đặc, cho thêm vài hạt muối, khuấy tan, dùng để ngậm và súc miệng nhiều lần trong ngày. Sau khoảng 5-6 ngày, miệng sẽ bớt mùi hôi.

Bài 2: Chữa đầy hơi, không tiêu do ăn nhiều đạm: Rau mùi 50g, thái dài khoảng 3 - 4cm; gừng tươi 1 lát đập dập. Tất cả rửa sạch sắc với 400ml nước, đến khi còn 200ml chia làm 2 lần, uống nóng,  mỗi lần dùng cách nhau 3 tiếng. Dùng liền 3 ngày.

Bài 3: Chữa cảm cúm: Rau mùi 40g, gừng tươi 10g, ngải cứu và cúc tần mỗi thứ 20g. Rửa sạch, thái nhỏ, gừng đập dập. Tất cả cho vào nồi sắc với 400ml nước, đến khi còn 100ml thì đổ ra, uống nóng, mỗi ngày 2 lần. Sau khi uống, nằm trong chăn ấm để cho ra mồ hôi, rồi lau khô người sẽ thấy dễ chịu hơn.

Bài 4: Chữa cảm mạo: Mùi tàu khô 10g , cam thảo đất 6g. Rửa sạch đổ vào nồi với 300ml nước, đun sôi trong khoảng 15 phút, rồi chia làm 3 lần, uống trong ngày.

Bài 5: Chữa đái dầm ở trẻ nhỏ: Lấy mùi tàu, rau ngổ, cỏ mần trầu, mỗi thứ 20g, cùng với 10g cỏ sữa lá nhỏ, thái nhỏ, phơi khô. Cho tất cả vào nồi đổ 500ml nước sắc còn 150ml, uống sau bữa ăn tối. Dùng khoảng 5-10 ngày. Có thể nhắc lại liệu trình mới.

Những bài thuốc trên đã được kiểm chứng trong điều trị, xong do cơ địa của mỗi người khác nhau, đặc biệt đối với trường hợp mắc các bệnh mạn tính sẽ không đáp ứng trong điều trị. Do vậy cần đến cơ sở y tế để được bắt mạch kê đơn.
 
Theo Sức khỏe & Đời sống

Thứ Sáu, 4 tháng 5, 2012

Y hoc bon phuong

                                                             BỆNH ĐAU NỬA ĐẦU
02/ KHỬ MÙI CƠ THỂ BẰNG LIỆU PHÁP TỰ NHIÊN


03/TÌM HIỂU VỀ HOẠT ĐỘNG NÃO BỘ


Thứ Hai, 30 tháng 4, 2012


Y học cổ truyền Bài thuốc cho người huyết áp cao Để điều trị cao huyết áp, y học hiện đại căn cứ vào nguyên nhân và cơ địa của người bệnh mà có các phương cách chữa trị thích hợp. Bên cạnh đó cũng có những bài thuốc cổ truyền dễ áp dụng. Theo y học cổ truyền, bệnh cao huyết áp thuộc chứng “huyễn vựng”, hoặc “can dương vượng”. Nguyên nhân có thể là do tình chí căng thẳng lâu ngày khiến can khí nội uất, hóa hỏa làm hao tổn can âm, can dương nhiễu loạn, bốc hỏa. Can và thận có quan hệ mật thiết với nhau, hỏa nung đốt phần âm của can thận, dẫn tới can thận âm hư, can dương vượng. Hoặc do ăn uống quá nhiều chất béo, chất ngọt làm tổn thương tỳ vị, dẫn đến chức năng vận hóa của tỳ suy giảm rồi dẫn tới đàm thấp nội sinh, và đưa đến thanh dương bất thăng, trọc âm bất giáng mà gây nên bệnh huyết áp cao. Tùy theo thể bệnh (can hỏa thịnh, can thận âm hư, âm dương đều hư...) mà y học cổ truyền có những bài thuốc điều trị hiệu quả. Điều đặc biệt là có một số vị thuốc chỉ dùng độc vị (một vị), hoặc kết hợp vài ba vị để điều trị cao huyết áp ở thể nhẹ, hoặc ở giai đoạn đầu rất tốt như: cúc hoa, đỗ trọng, câu đằng, phòng kỹ, hòe hoa, mướp đắng, rau má, cải xoong, cam thảo đất, hạ khô thảo, lá liễu... Dưới đây là một số cách ứng dụng đơn giản chữa cao huyết áp bằng cây cỏ mà người dân ở quê cũng có thể áp dụng. - Rau cần nửa kg, rửa sạch, xay (hoặc giã nhuyễn) để vắt lấy nước uống. - Lạc nhân (hạt đậu phộng) 200 gr, để cả vỏ lụa đem ngâm vào nửa lít giấm ăn, mỗi tối trước khi đi ngủ nhai 10 hạt và nuốt. - Lá liễu tươi 250 gr, cho vào cùng 1 lít nước, rồi sắc (nấu) kỹ, uống trong ngày. - Hoa cúc, hòe hoa, hoa đề thái (mỗi loại 10 gr) cho vào nửa lít nước, sắc uống trong ngày. - Hạ khô thảo 15 gr, long đởm thảo 6 gr, ích mẫu 30 gr, bạch thược 12 gr, cam thảo 6 gr. Tất cả cho vào nồi cùng 3 chén nước (750 ml) sắc uống trong ngày. - Sinh địa 15 gr, sơn thù 10 gr, trạch tả 10 gr, quế chi 10 gr, ngưu tất 10 gr cho vào cùng 3 chén nước, sắc uống trong ngày. Lưu ý, cần tham khảo ý kiến nhà chuyên môn và cần theo dõi huyết áp, nếu thấy bất thường phải đi khám, kiểm tra sớm.
Thứ ba, 14/02/2012, 10:13(GMT+7) Cần tây chữa cao huyết ápCần tây có công dụng dưỡng huyết mạnh, lợi tỳ, ích khí, thanh nhiệt hạ hỏa, lợi đại tiểu tiện, tiểu đường, giảm ho... Đông y gọi cần tây là cần làm thuốc, dương khổ cần, vị ngọt đắng the mát có công dụng dưỡng huyết mạnh, lợi tỳ, ích khí, thanh nhiệt hạ hỏa, lợi đại tiểu tiện, tiểu đường, giảm ho... Từ lâu, người Hy Lạp dùng cần tây chữa lợi tiểu, người Ai Cập dùng để chữa tim... Đặc biệt người ta thường dùng cần tây để "lọc máu" có mỡ máu cao, giảm béo và chữa cam huyết áp... Chữa huyết áp cao: Rau cần tây cả cây 50 - 60g, sắc lấy nước uống hằng ngày (chia 3 lần) uống đến khi thấy huyết áp ổn định thì thôi. Hoặc rau cần tây 100g, cải 50g, gừng 5g, hành 10g, nước canh gà 300g, nấu chín, ăn nóng. Mỡ trong máu cao, huyết áp cao: Cần tây 500g, táo đen bỏ hạt 250g. Nấu chín, uống nước, ăn cái. Bổ can thận, hạ huyết áp: Rau cần tây 200g, táo bỏ hột 10g, đỗ trọng (bột) 15g, gừng 5g, hành 10g, muối 5g, dầu vừa đủ dùng. Nồi nóng, đổ dầu phi thơm gia vị. Đổ 600ml nước đun sôi rồi bỏ cần, táo, đỗ trọng, gia vị, đun nhỏ lửa thêm 20 - 30 phút là ăn được. Hoặc rau cần tây 200g, mộc nhĩ 30g, đỗ trọng bột 10g, tỏi 15g, gừng 5g, gia vị dầu vừa đủ. Các vị cho vào xào, bỏ cần tây sau cùng xào ăn tái. Theo Lương y Nguyễn Văn
  • PHONG TÊ THẤP 
Phong tê thấp là bệnh thường gặp ở độ tuổi trung niên và cao tuổi. Bệnh thường phát triển dai dẳng, triệu chứng không biểu hiện rầm rộ, chỉ thoáng qua và lặp đi lặp lại. Đau nhức tê buồn xuất hiện từng đợt phụ thuộc vào thời tiết và khí hậu đặc biệt mùa đông xuân hoặc những khi sức khỏe bị trục trặc suy giảm, lao động và sinh hoạt không điều độ, ăn uống thiếu thốn, nơi ở ẩm thấp, âm u kéo dài.
Trên lâm sàng phong tê thấp cũng thể hiện nhiều thể loại khác nhau. Hay gặp nhất là phong thấp, hàn thấp, tê thấp. Các loại khác ít gặp. Tùy thể loại mà Đông y có các bài thuốc điều trị cụ thể xin được trình bày từng thể bệnh. Bạn đọc có thể tham khảo và áp dụng khi cần, bởi nó có hiệu quả trên lĩnh vực này, người bệnh rất dễ tìm kiếm và sử dụng.

Thể phong thấp

Triệu chứng: Các khớp và thân thể đau nhức, đau thường chạy từ khớp này sang khớp kia, các khớp khó cử động, cơ thể phát sốt, toàn thân mệt mỏi, thích nằm, mạch phù.
Bài 1: Rễ xấu hổ 16g, thiên niên kiện 10g, vòi voi 16g, huyết đằng 16g, thổ linh 20g, độc hoạt 16g, nam tục đoạn 16g, ngũ gia bì 12g. Sắc uống ngày một thang.
Bài 2: Hy thiêm 16g, cỏ xước 16g, rễ bưởi bung, kinh giới 16g, phòng phong 12g, thương nhĩ 16g, tang ký sinh 16g, thiên niên kiện 10g. Sắc uống ngày một thang.

Thể hàn thấp

Triệu chứng: Đau ở một khớp hoặc nhiều khớp, đau cố định, không chạy như phong thấp. Càng lạnh càng đau. Đau nhiều về đêm. Các khớp khó co duỗi. Chân tay lạnh, da lạnh, rêu lưỡi trắng, mạch khẩn, đại tiện thường lỏng.
Bài 1: Thương nhĩ tử (sao) 16g, thiên niên kiện 10g, rễ cỏ xước 16g, rễ cà gai leo 16g, rễ tất bát 12g, nam tục đoạn 16g, ngải diệp (sao) 16g, quế chi 10g, trần bì 10g, thổ phục linh 20g. Sắc uống ngày một thang.
Bài 2: Nam tục đoạn 16g, kinh giới 16g, kê huyết đằng 16g, độc hoạt 12g, cỏ xước 16g, thủ ô chế 16g, bưởi bung 16g, ngũ gia bì 16g, quế 10g, thiên niên kiện 10g, xuyên khung 12g, chích thảo 10g. Sắc uống ngày một thang (uống khi nước thuốc còn nóng).

Thể tê thấp

Triệu chứng: Đau nhức nặng nề, da thịt tê bì, đi lại chậm chạp khó khăn, đau dai dẳng, nhận biết cảm giác bị giảm. Nếu bệnh nặng có thể bị tê liệt một bên cơ thể. Trường hợp này mạch nhu hoãn.
Cách chữa: Khu phong tán hàn, trừ thấp.
Bài 1: Tang ký sinh 16g, phòng phong 12g, kinh giới 16g, tất bát 12g, huyết đằng 16g, tế tân 6g, thiên niên kiện 10g, ngũ gia bì 16g, xuyên khung 12g, độc hoạt 12g, hà thủ ô (chế) 16g, cam thảo 10g. Sắc uống ngày một thang.
Bài 2: Bài thuốc chườm: Ngải diệp và lá cúc tần, mỗi thứ một nắm sao rượu, khi còn đang nóng chườm vào nơi đau. Công dụng: giảm đau, chống viêm, thông kinh hoạt lạc, phục hồi chức năng sinh lý cho xương khớp.
Chú ý: Bệnh nhân cần nghỉ ngơi và ăn uống hợp lý; chống lạnh, tránh nơi ẩm thấp, luôn luyện tập và kết hợp xoa bóp để chống xơ cứng.



Tác dụng chữa bệnh bất ngờ của ngải cứu

Cây ngải cứu có tên khoa học là Artemisia Vulgaris, thường có mùi thơm nồng và có vị hơi đắng hoặc rất đắng tùy theo mùa. Ngải cứu có thể dùng để chế biến các món ăn hoặc được sao khô lên làm thuốc. Dù dùng ở bất kì hình thức nào thì cây ngải cứu cũng có rất nhiều tác dụng đối với sức khỏe và chữa bệnh.
Dưới đây là một số công dụng phổ biến và hữu hiệu của cây và lá ngải cứu:
Làm thuốc điều kinh
Một tuần trước ngày kinh dự kiến, mỗi ngày lấy 6-12g (tối đa 20g) sắc với nước hoặc hâm với nước sôi như trà, chia làm 3 lần uống trong ngày. Có thể uống dưới dạng bột (5-10g) hay dạng cao đặc (1-4g). Nếu kinh nguyệt không đều thì hàng tháng đến ngày bắt đầu kỳ kinh và cả những ngày đang có kinh, lấy ngải cứu khô 10g, thêm 200 ml nước, sắc còn 100 ml, thêm chút đường để uống, chia 2 lần/ngày. Có thể uống liều gấp đôi, cũng 2 lần/ngày. Sau 1-2 ngày sẽ thấy hiệu quả, người đỡ mệt, máu kinh đỏ và ít hơn.
Giúp an thai
Những người đang mang thai, nếu thấy có hiện tượng đau bụng, ra máu, dùng 16gr lá ngải cứu, 16gr lá tía tô, sắc cùng với 600ml nước, sắc còn 100ml, chia làm 3-4 lần uống/ngày. Bài thuốc này có tác dụng an thai. Ngải cứu không có tác dụng kích thích với tử cung có thai nên không gây sảy thai.
Sơ cứu vết thương
Lấy lá ngải cứu tươi giã nát, thêm 1/3 muỗng cà phê muối đắp lên vết thương, cầm máu nhanh, giảm đau nhức.
Trị mụn, mẩn ngứa
Ngải cứu có tác dụng trị mụn, mẩn ngứa. (Ảnh minh họa)
Lá ngải cứu tươi giã nát, đắp lên mặt, để khoảng 20 phút, rồi rửa lại mặt, làm liên tục như vậy sẽ có làn da trắng sáng hồng. Với trẻ em thường hay bị rôm sảy thì lấy lá ngải cứu xay nát rồi lọc lấy nước cho trẻ tắm.
Đau thần kinh tọa, nhức buốt khớp xương, đau đầu hoa mắt
Lấy 300gr ngảic cứu rửa sạch, giã nát, thêm 2 muỗng mật ong (ruồi, nghệ), vắt lấy nước uống trưa, chiều. Uống liên tục trong 1-2 tuần.
Lưu thông máu lên não
Lấy một nắm lá ngải cứu, xắt nhỏ, đánh tan đều với 1 quả trứng gà, nêm hạt nêm vừa miệng, đổ vào chảo chiên chín rồi ăn.
7. Suy nhược cơ thể, kém ăn
Lấy 250gr ngải cứu, 2 quả lê, 20gr câu kỷ tử, 10gr đinh quy, 1 con gà ri (gà ác) 150gr, hầm trong 0,5 lít nước (thêm gia vị, bột nêm) còn 250ml. Chia làm 5 phần, ăn cả ngày. Liên tục 1-2 tuần.
Trứng rán ngải cứu món ăn thơm ngon bổ dưỡng. (Ảnh minh họa)
8. Cảm cúm, ho, đau cổ họng, đau đầu, đau dây thần kinh
Lấy 300gr ngải cứu, 100gr lá khuynh diệp, 100gr lá bưởi (hoặc quýt, chanh). Nấu trong 2 lít nước. Sôi 20 phút nhấc xuống, xông 15 phút. Cách thứ 2: Nấu lá thuốc cứu với 100gr lá tía tô, 100gr tần dầy lá, 50gr lá sả trong 1 lít nước còn 0,5 lít. Uống mỗi lúc khát, liên tục trong 3-5 ngày.
Ngải cứu được coi là tốt cho sức khỏe nhưng nếu dùng quá nhiều cũng có thể gây ra ngộ độc. Độc tính của ngải cứu khi dùng quá liều là làm cho  thần kinh trung ương bị hưng phấn quá mức, dẫn tới chân tay run giật, sau đó cục bộ hoặc toàn thân co giật; Sau vài lần có thể dẫn đến kinh quyết (co cứng), nói sàm, thậm chí tê liệt. Kiểm tra bằng kính hiển vi có thể phát hiện các tổn thương ở tế bào não. Sau khi khỏi bệnh, vẫn thường để lại những di chứng như hay quên, ảo giác, viêm thần kinh,…

_ THÔNG BÁO

Ngày 19/04/2012 phiên họp đâù tiên của BCH nhiệm kỳ VII về việc vận động đóng góp xây dựng quỹ  Hội.
 -  Trên cơ sở Thu cố định hằng năm các khoản trong tiêu chí thi đua.
 - Thu theo Nghị Quyết Đại hội.
 - Thu từ nguồn hảo tâm tự nguyện đóng góp của hội viên.
 Vì sự nghiệp xây dựng và phát triển cuả Hội .Rất mong sự hưởng ứng,tích cực thực hiện của Quý vị theo tinh thần thông báo này.
                                                      Chủ tịch Hội
                                                  L.Y . Trương Tổng

Thứ Ba, 17 tháng 4, 2012

“Nghề thuốc truyền thống ở Hội An"

Hình thành bảo tàng “Nghề thuốc truyền thống ở Hội An” Nhà cổ số 46 Nguyễn Thái Học vừa được UBND thành phố Hội An, Quảng Nam giao cho Trung tâm Quản lý bảo tồn di sản văn hóa Hội An để xây dựng nơi đây thành bảo tàng “Nghề thuốc truyền thống ở Hội An" Ðây sẽ là nơi trưng bày các tư liệu, hiện vật, tổ chức các hoạt động liên quan đến nghề thuốc đông y truyền thống đã hình thành, tiếp biến hàng trăm năm qua tại Hội An. Bên cạnh đó, mới đây thành phố Hội An còn tiếp nhận nhiều hiện vật, tư liệu về nghề thuốc đông y truyền thống do ông Jean Cousso (quốc tịch Pháp) - chủ tịch Hội Những người bạn Huế - trao tặng, tạo thuận lợi không nhỏ cho việc hình thành bảo tàng. Theo HOÀNG DUY (Tuổi Trẻ)

Thứ Tư, 11 tháng 4, 2012

Hội An kỷ niệm ngày giỗ Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác

Sáng 17.2, Hội Đông y TP. Hội An tổ chức kỷ niệm 220 năm ngày giỗ Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác. Được thành lập từ năm 1977, Hội Đông y Hội An hiện có 45 hội viên sinh hoạt tại 7 chi hội, gồm: 3 bác sĩ, 3 đông y sĩ; 17 lương y, 2 lương dược và 20 hội viên chuyên môn khác. Trong năm 2010, toàn hệ thống có 24 phòng khám Đông y và 3 cửa hàng Đông dược; đã khám chữa bệnh cho 45.192 lượt người, sử dụng 69.043 thang thuốc, 368kg bột dược liệu và 1.234kg hoàn dược; thực hiện 1.839 lượt chữa bệnh bằng phương thức châm cứu, day bấm huyệt… Tổng giá trị khám chữa bệnh trong năm 2010 hơn 2,7 tỷ đồng. Theo [bao Quang nam]

Thứ Ba, 10 tháng 4, 2012

Nghề y cổ truyền:

Nghề y cổ truyền:

Đô thị cổ Hội An, từ thế kỷ 16 – 17 từng là tụ điểm của ngành Đông y ở Đàng Trong. Hàng hoá xuất nhập tại đây có nhiều loại dược liệu quý, thường được gọi bằng cái tên dân dã là thuốc Bắc nếu nhập từ Trung Quốc, hoặc thuốc Nam nếu là hàng nội địa. Vào thời kỳ ấy, dọc các đường Trần Phú, Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Thái Học, Lê Lợi (hiện nay), có nhiều tiệm thuốc Bắc, thuốc Nam và nhiều thầy thuốc giỏi. Những kinh nghiệm chữa trị của các thầy thuốc ở Hội An đã góp phần đáng kể phát triển nghêềy cổ truyền của địa phương cũng như của Quảng Nam, Đàng Trong. Hoạt động điều trị ở đây bao gồm các khâu liên hoàn từ bắt mạch, kê đơn, bốc thuốc, điều chế hoặc trồng hái cây, lá thuốc..
Nhiều tư liệu cho biết, ngay tới tận đầu thế kỷ 20, khi ngành Tây y chưa phổ biến, người dân khắp nơi đã đổ về phố Hội An cắt thuốc, chữa bệnh rất đông đảo. Trải qua bao biến đổi của thời gian và thay đổi thói quen của con người, ngày nay ngành Đông y cổ truyền ở Hội An vẫn được trân trọng, duy trì, ngày càng có xu hướng phát triển và có uy tín lớn không những đối với nhân dân địa phương mà còn với khá nhiều du khách từng bắt mạch, bốc thuốc tại đây.



Thuyền tán thuốc của các thầy thuốc Đông y ở Hội An


Hải Châu
Việt Báo (Theo_VietNamNet)

Thứ Sáu, 6 tháng 4, 2012

Vô Thường





                                       " Trong thú vui đã mở đường cho đau khổ 
                                          Trong hội ngộ, đã nẩy mâm chia ly
  • Bạn có từng nghĩ rằng một ngày nào đó những người thương của bạn sẽ không còn sống bên bạn nữa không. Chúng ta không một ai có thể biết chắc được điều gì sẽ xảy ra vào ngày mai. Thậm chí chúng ta cũng không thể biết chắc được điều gì sẽ xảy ra vào một giờ sắp tới đối với những người thân của chúng ta, hay thậm chí đối với bản thân mình. Có thể bạn ta mới đến thăm ta ngày hôm qua, mà hôm nay ta được báo tin là người đó đã không còn sống trên cõi đời này nữa. Nhận được tin ấy mà lòng ta bồi hồi xúc động, và ta dường như không thể tin vào những gì mà tai mình vừa mới nghe thấy. Ta nói với người đến báo tin với ta rằng “ tôi mới nói chuyện với anh ấy ngày hôm qua mà ” , hay “ chị ấy mới đến thăm tôi và còn tặng quà cho tôi nữa mà ”. Nhưng sự thật vẫn là sự thật. Người bạn ấy của ta đã không còn sống trên cõi đời này nữa. Và có rất nhiều, rất nhiều trường hợp tương tự như thế. Người ta mới thấy đó nhưng giờ đây đã không còn nữa. Khi chúng ta giao tiếp, cư xử với người xung quanh với ý thức rằng có thể ngày mai ta sẽ không có cơ hội nghe được giọng nói của người đó nữa. Có thể ngày mai ta sẽ không còn thấy được nụ cười tươi trên khuôn mặt người đó nữa. Thì tự nhiên ta sẽ trân quí sự có mặt của người đó, và ta sẽ không nỡ nói hay làm những gì có thể gây tổn thương cho người đó. Người đó có thể là ba mẹ chúng ta. Người đó có thể là chồng hay là vợ của chúng ta. Và người đó cũng có thể là con cái chúng ta… Chúng ta sống với ý thức về sự vô thường, ngắn ngủi của một kiếp người càng sâu sắc, thì cách sống của chúng ta, cách hành xử của chúng ta cũng sâu sắc và yêu thương hơn. Mỗi người trong chúng ta hay có khuynh hướng nghĩ rằng những người thương của chúng ta sẽ sống với chúng ta hoài, sẽ sống với chúng ta mãi. Chúng ta ít có khi nào nhớ rằng có thể chỉ sau một đêm thôi thì ta sẽ mãi mãi không còn gặp người ấy nữa. Ta muốn nói những lời xin lỗi của ta với người ấy, ta muốn nói lòng biết ơn của ta với người ấy hay ta muốn thể hiện tình thương của mình cho người ấy - nhưng đã trễ rồi. Người đó đã không thể nghe, và mãi mãi sẽ không thể nghe những gì ta muốn nói dù chỉ một lời. Vì vậy bạn hãy vui lên đi, bạn hãy cười tươi lên đi khi bạn vẫn có ba, có mẹ còn sống bên bạn. Bạn hãy hạnh phúc lên đi khi những người thương của bạn vẫn còn đó cho bạn. Và bạn hãy can đảm để nói cho người thương của bạn những gì sâu kín nhất trong lòng của mình. Vì có thể bạn sẽ chẳng còn cơ hội nào nữa nếu bạn không nói ra điều ấy. Và bạn hãy tha thứ cho tất cả những ai đã từng làm hại bạn, làm tổn thương bạn vì có thể ngày mai bạn cũng sẽ không còn có mặt trên cõi đời này nữa. Điều mà tôi khám phá ra trong cuộc đời của mình cho đến tận bây giờ, điều mà làm cho tôi hạnh phúc đó là tình thương, sự tha thứ, bao dung. Có thể tôi thực tập yêu thương còn kém, có thể sự tha thứ, bao dung trong tôi còn kém nhưng đó là con đường mà tôi sẽ nguyện đi trên ấy mỗi ngày. Tôi tự nói với chính mình “hãy thương yêu khi có thể, hãy tha thứ, bao dung khi có thể, bởi vì chỉ một giây phút thôi thì những điều này sẽ trở thành không thể.” Và điều mà làm cho tôi hạnh phúc nhất không có gì khác hơn sau khi bạn đọc những dòng chữ này, thì sự thương yêu, tha thứ, bao dung trong bạn được biểu hiện. Và bạn đến nói với ba bạn, mẹ bạn, những người thương của bạn rằng bạn yêu họ lắm. Rằng ba mẹ vẫn còn sống bên bạn là hạnh phúc lớn nhất của cuộc đời bạn. Rằng bạn sẽ không cần gì hơn những điều như vậy. Rồi nụ cười hạnh phúc sẽ nở trên môi của bạn và khi đó bạn cũng biết rằng nụ cười hạnh phúc ấy cũng đang nở trên môi của tôi.
 PHÁP NHẬT

Chủ Nhật, 12 tháng 2, 2012

THUỐC CHỮA UNG THƯ VÚ

      Ung thư vú là một căn bệnh trong đó các tế bào ác tính (ung thư) được phát hiện trong các mô của vú. Các tế bào ung thư này sau đó có thể lây lan trong các mô hoặc cơ quan và các bộ phận khác của cơ thể. Ung thư vú là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong thứ hai của phụ nữ ngày nay. Tại Trung Quốc, cứ mỗi 2 trong 35 phụ nữ sẽ được chẩn đoán bị ung thư vú trong cuộc đời. Phụ nữ Trung Quốc có nguy cơ cao hơn so với Malaysia hay Ấn Độ khoảng 10-20%. Tần suất cao nhất là trong 55 - 59 nhóm người độ tuổi. Nguy cơ ung thư vú tăng theo tuổi tác. Các tin tốt là nhiều phụ nữ còn sống sót sau căn bệnh này như là một kết quả của việc phát hiện sớm và điều trị được cải thiện bằng đôngy.
    Các yếu tố gây ra bệnh ung thư này là không rõ. Nó có thể được cho là do tiền sử gia đình đã có người bị ung thư vú, việc có kinh nguyệt sớm hoặc các yếu tố nguy cơ khác có thể. Vì thế mà rất khó khăn để xác định, bất kỳ ai trong chúng ta đều có thể có nguy cơ, đặc biệt là khi phụ nữ chúng ta có độ tuổi từ 40 trở lên. Trong khi các yếu tố không rõ để phát hiện sớm thì việc ăn các thực phẩm bằng thảo dược hàng ngày cũng như sử dụng dược liệu có trong tự nhiên để phòng và chữa bệnh dứt điểm hoàn toàn không có gì là khó,nhất là đối với y học cổ truyền Trung Hoa. Truyền thống y học cổ truyền Trung Quốc điều trị ung thư dựa trên nguyên tắc của Fu Zheng Gu Ben. "Fu Zheng" có nghĩa là tăng cường những gì là chính xác. "Gu Ben" có nghĩa là tái sinh và sửa chữa. Điều trị ung thư với các loại thảo mộc Trung Quốc đòi hỏi chẩn đoán chính xác nguyên nhân có thể xảy ra của bệnh ung thư, sau đó lựa chọn các loại thảo dược phù hợp để điều trị. Chẩn đoán chính xác hiện nay được thực hiện bằng các biện pháp y học phương tây. Các loại thảo mộc duy nhất hiếm khi được sử dụng riêng biệt,chính vì thế mà trong mỗi bài thuốc của các danh y xưa có trên 25 loại thảo dược là bình thường.
    Các loại thảo mộc được kết hợp thành công thức,các công thức này sẽ thay đổi từ người này sang người khác,từ đời này sang đời khác cho đến khi tác dụng của mỗi bài thuốc đạt giá trị chữa bệnh tối ưu nhất. Công thức thường chứa các loại thảo mộc cho nhiều mục đích khác nhau. Có loại thảo mộc để di chuyển khí, có loại thảo mộc chống ung thư, có loại thảo mộc xây dựng miễn dịch, loại thảo mộc để trung hòa chất độc….. Đây là một số thảo mộc ‘’vị thuốc’’ tiêu biểu có trong bài thuốc chữa ung thư vú của y học cổ truyền Trung Hoa xưa
    
CỎ LINH LĂNG.
Cỏ Linh Lăng
    Theo nghiên cứu của các nhà thực vật Trung Quốc kết luận nguồn gốc cỏ linh lănhg một loại thực vật bản địa lâu năm ở Iran. Nó có thể sống 5-12 năm và hiện nay, cỏ linh lăng được trồng làm thức ăn cho gia súc, việc nó có mặt trong một số bài thuốc chữa ung thư vú của những danh y Trung Hoa xưa thì hiển nhiên nó có nhiều lợi ích dinh dưỡng và chữa bệnh cho con người. Mầm cỏ linh lăng có chứa số lượng lớn các chất phytochemical, có thể bảo vệ và chống lại các bệnh như ung thư tuyến tụy, ruột kết và ung thư bạch cầu, bệnh loãng xương, u vú , cholesterol cao, xơ cứng động mạch và bệnh tim mạch cũng như các triệu chứng liên quan với phụ nữ tiền mãn kinh. Các hoạt chất có trong cỏ linh lăng: Beta-carotene, Calcium, Magnesium, Photpho, Kali. Với các tác dụng như: Giảm viêm,kích thích các hệ thống miễn dịch,giải độc,Hỗ trợ hoạt động tình dục ,Dễ tiêu hóa protein, Cao trong chất chống oxy hóa, saponin và chất phytochemical,Ngăn chặn phá hủy DNA, Bảo vệ khỏi những ảnh hưởng liên tục của lão hóa.

  RAU DỀN.
Rau Dền
   Rau dền là một nguồn dinh dưỡng tốt của vitamin A, vitamin C,vitaminD , folate, vitamin K, cũng như mangan, sắt và magiê. Rau dền chứa nhiều carotenoid như beta-carotene và lutein , cũng như flavonoids như kaempferol, và một loạt các lignans , chlorophyll, và glycolipids với đặc tính chống ung thư vú. Rau dền đã được khẳng định có tác dụng chống viêm, chống oxy hóa, bảo vệ thần kinh, và để bảo vệ mắt khỏi thoái hóa điểm vàng và đục thủy tinh thể. Các thành phần rau dền đã được kết luận gây ức chế sự phát triển và phổ biến của các tế bào ung thư cổ tử cung,ung thư vú. Chế độ ăn uống hàng ngày có thành phần rau dền sẽ giúp cho chúng ta loại trừ được các bệnh ung thư tử cung,ung thư vú,ung thư ruột kết.

  XƯƠNG CỰA.
Xương Cựa
  Xương cựa là một loại cây lâu năm có một hệ thống rễ với trên 20 hoạt chất có giá trị được đặt ở vị trí hang đầu trong việc điều trị ung thư gan và đây cũng là một loại thuốc bổ năng lượng phổ biến ở Trung Quốc,nó không chỉ có tác dụng đơn thuần điều trị cho các vi rút cảm lạnh và cúm, nó còn có khả năng tăng cường hệ thống miễn dịch chống lại căn bệnh ung thư. Đây là loại thảo dược được cho là kích thích các lymphokin kích hoạt killer (LAK) các tế bào lành tính vào tấn công các khối u chứa các tế bào ác tính. Vỏ thân, vỏ rễ, và quả của cây đã được sử dụng để điều trị bệnh tim, ký sinh trùng, túi mật và gan. Loại thảo dược này có thể cải thiện dòng chảy của mật giúp loại bỏ các hóa chất độc hại còn sót lại bởi các tế bào gan ung thư. CÂY ANH THẢO. Là một loại gốc hoa dại lâu năm ở Bắc và Nam Mỹ, có một lịch sử lâu dài của việc sử dụng làm thực phẩm và thuốc. Thổ dân châu Mỹ và châu Âu ăn cây anh thảo vào mỗi buổi tối như là một thực phẩm ở truyền thống. Đây là một loại thảo dược được sử dụng phần lá của cây để điều trị vết bầm tím và bệnh trĩ. Ngày nay, hoa anh thảo buổi tối được sử dụng chủ yếu phần tinh dầu giàu các axit béo thiết yếu, đặc biệt là axit gamma linolenic, hoặc GLA. Những axit béo mang lại lợi ích chức năng miễn dịch trong nhiều cách khác nhau nhất là đối với hệ miễn dịch cho các bệnh nhân bị ung thư vú. Dầu anh thảo có chứa axit omega-6 thiết yếu linoleic acid béo (LA) và axit gamma-linolenic (GLA). Tuy nhiên, không giống như các chất béo omega-6 gây viêm, LA và GLA cung cấp một hiệu ứng chống viêm. GLA được tìm thấy trong dầu anh thảo chỉ có vào buổi tối và trên thế giới chỉ có một loại cây này là cho chúng ta loại axit đặc biệt này.

   BỒ CÔNG ANH.
Bồ Công Anh
   Bồ công anh là một thành viên của gia đình họ Cúc ,một nguồn gốc thảo mộc lâu năm ở bán cầu phía Bắc và tìm thấy đang phát triển hoang dã trong đồng cỏ của vùng ôn đới. Bồ công anh thương mại hầu hết được trồng ở Bulgaria, Hungary, Ba Lan, Romania, và Anh Quốc. Bồ công anh thường được sử dụng trong y học người Mỹ bản xứ và ở Trung Quốc,dung phần gốc thảo mộc để điều trị bệnh thận, rối loạn dạ dày, ợ nóng. Trong y học cổ truyền Ả Rập, bồ công anh đã được sử dụng để điều trị bệnh gan và lá lách. Trong y học cổ truyền Trung Quốc , bồ công anh được kết hợp với các loại thảo mộc khác để điều trị bệnh gan, tăng cường phản ứng miễn dịch với nhiễm trùng đường hô hấp trên, viêm phế quản, viêm phổi, và như là một vị thuốc đặc trị ung thư vú. Gốc và lá bồ công anh được sử dụng rộng rãi ở châu Âu cho các bệnh đường tiêu hóa. Hợp tác khoa học châu Âu về Phytotherapy (ESCOP) khuyến cáo gốc của cây bồ công anh cho sự phục hồi của chức năng gan, điều trị rối loạn dạ dày, và để điều trị mất cảm giác ngon miệng. Một số njhaf ngiên cứu về đông y hiện đại khẳng định rằng bồ công anh có thể giải độc gan và túi mật, giảm tác dụng phụ của các thuốc chuyển hóa (chế biến) của gan, và giảm các triệu chứng liên quan với bệnh gan. Bồ công anh thường được coi là an toàn với các tác dụng phụ hiếm gặp bao gồm viêm da tiếp xúc, tiêu chảy, rối loạn tiêu hóa. Bồ công anh được sử dụng như một thành phần salad, và gốc rang và các chất chiết xuất của nó đôi khi được sử dụng như một chất thay thế cà phê.

Thứ Bảy, 11 tháng 2, 2012

THUỐC CHỮA UNG THƯ GAN



   Ung thư gan thường là kết quả cuối cùng của một tình trạng gan như viêm gan C, sự lây lan của ung thư từ các nơi khác trong cơ thể. Trong khi ung thư có thể điều trị, một số bác sĩ sẽ đề nghị phương pháp điều trị thay thế như các biện pháp khắc phục hậu quả bằng thảo dược để  hạn chế tác dụng phụ và cải thiện sức khỏe bệnh nhân khi tham gia phẫu thuật hoặc hóa trị liệu. Ngăn chặn sự lây lan của tế bào ung thư đến các bộ phận khác của cơ thể.
Một số vị thuốc tiêu biểu có trong bài thuốc:


Xương cựa.
Xương cựa là một loại cây lâu năm có một hệ thống rễ với trên 20 hoạt chất có giá trị được đặt ở vị trí hang đầu trong việc điều trị ung thư gan và đây cũng là một loại thuốc bổ năng lượng phổ biến ở Trung Quốc,nó không chỉ có tác dụng đơn thuần điều trị cho các vi rút cảm lạnh và cúm,  nó còn có khả năng tăng cường hệ thống miễn dịch chống lại căn bệnh ung thư. Đây là loại thảo dược được cho là kích thích các lymphokin kích hoạt killer (LAK) các tế bào lành tính vào tấn công các khối u chứa các tế bào ác tính.
 Vỏ thân, vỏ rễ, và quả của cây đã được sử dụng để điều trị bệnh tim, ký sinh trùng, túi mật và gan. Loại thảo dược này có thể cải thiện dòng chảy của mật giúp loại bỏ các hóa chất độc hại còn sót lại bởi các tế bào gan ung thư.
    Quế .
    Quế là một gia vị ẩm thực nổi tiếng có thể được tìm thấy ngày càng nhiều bởi sự phổ biến của chúng trong đời sống hàng ngày,nhất là ở vùng Tây Tạng, ở Sri Lanka và ở Tích Lan. Các hoạt chất trong loại thảo dược này có thể thúc đẩy lưu thong máu, chống lại cảm lạnh thông thường, khắc phục tình trạng kinh nguyệt không đều, và ngăn ngừa chống lại bệnh ung thư gan. Quế có tính chất chống nấm và chống vi khuẩn làm cho nó trở thành một đối thủ đáng gờm đối với alfatoxins – Một chất được coi là một tác nhân gây ung thư gan..
Trong y học cổ truyền Trung Quốc luôn coi quế là một vị thuốc không thể thiếu trong một số bài thuốc hay và đây là một phương thuốc truyền thống được sử dụng kể từ ít nhất thế kỷ thứ 2 trong việc sử dung kết hợp các vị thuốc của các danh y Trung Quốc. Các bài thuốc được sử dụng vị quế để điều trị cho bệnh hen suyễn, da, nhiễm trùng tiêu hóa, và các thuộc tính chống viêm của nó,giúp giảm viêm gan, ngăn chặn thiệt hại của hệ thống miễn dịch gây ra bởi hóa trị, và gây ra cái chết của các tế bào ung thư gan

   Cam Thảo.

Cam thảo là một phương thuốc thảo dược  xuất hiện đầu tiên ở Trung Quốc và hầu hết được trồng ở Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, và châu Á. Cam thảo có một lịch sử lâu dài trong việc ứng dụng làm dược liệu và thuốc trong cả hai hệ thống của y học phương Đông và phương Tây. Cam thảo có chứa một hợp chất gọi là glycyrrhizin (glycyrrhizic axit) và các hợp chất licochalcone-A, licocoumarone và glabrin có thể ngăn chặn sự tăng trưởng của các tế bào ung thư, theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ.
Các hợp chất trong rễ cam thảo cũng có thể ngăn chặn đột biến DNA có liên quan đến ung thư.
Rễ cam thảo đã được sử dụng như là một  vị thuốc đơn giản làm giảm viêm loét dạ dày, viêm phế quản, đau họng, cũng như các bệnh nhiễm trùng gây ra bởi virus, chẳng hạn như viêm gan c. Nó còn được sử dụng cho nhiều căn bệnh khác  bao gồm cả hen suyễn, hói đầu, mùi cơ thể, viêm bao hoạt dịch, mệt mỏi mãn tính, trầm cảm, cảm lạnh và cúm, ho, khí phế thủng, viêm nướu và sâu răng, bệnh gút, chứng ợ nóng, HIV, nhiễm virus , nhiễm nấm, viêm loét, vấn đề về gan, bệnh Lyme thời kỳ mãn kinh,, bệnh vẩy nến, bệnh zona, đau họng, viêm gân, bệnh lao, viêm loét, nhiễm trùng nấm men, mở rộng tuyến tiền liệt và viêm khớp.

Nhân sâm

Nhân sâm là một trong những vị thuốc được  đánh giá cao nhất trong các loại thảo dược Phương Đông, nơi mà nó đã thu được danh tiếng gần như huyền diệu cho việc có thể tăng cường sức khỏe, sinh lực cơ thể nói chung, để kéo dài cuộc sống và điều trị bệnh bao gồm trầm cảm, tiểu đường, mệt mỏi, lão hóa , viêm, nội bộ thoái hóa, buồn nôn, các vấn đề về phổi, khó tiêu, nôn, căng thẳng, và loét,khối u ác tính.
Nhân sâm có một lịch sử trong việc sử dụng thảo dược cổ đại nhất Trung Quốc. Đây là một trong những đánh giá cao nhất của các loại thuốc thảo dược Phương Đông, nơi mà nó đã đạt được một danh tiếng gần như huyền diệu cho việc có thể để thúc đẩy sức khỏe, sức sống cho cơ thể và cũng để kéo dài cuộc sống. Tên chi Panax có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là "thuốc chữa bách bệnh" hoặc "chữa lành tất cả", nhân sâm loài được cho là có nghĩa "tự hỏi trên thế giới". Cả hai thuật ngữ đều đề cập đến những đức tính chữa bệnh của loại thảo dược này. Trong nhiều thế kỷ qua, nó đã trở nên phổ biến ở phương Tây và được sử dụng rộng rãi trên các tác dụng có lợi của nhân sâm và các thành phần của nó.

  Măng Cụt
Mới vài thập kỷ qua các nhà khoa học phương tây mới phân tích được những giá trị hữu ích có trong quả măng cụt đối với sức khoe con người.Nhưng sự hiện diện tên của loại trái cây nhiều dinh dưỡng này có trong một số bài thuốc quý của các danh y xưa đối với những bác sĩ đông y Trung Quốc là một vị thuốc quá quen thuộc.Măng cụt được cho là có nhiều hoạt chất chữa bệnh ung thư gan tự nhiên nhất. Trái cây, có nguồn gốc từ Thái Lan và Miến Điện, có chứa hợp chất chống nấm, vi khuẩn, và quan trọng nhất, các khối u ác tính trong gan. Cho đến nay rất nhiều kết quả đồng nhất trên khắp các phòng thí nghiệm,các bệnh viện đông y trên thế giới cho thấy rằng Măng Cụt chống lại các tế bào ung thư, trong các tế bào bệnh bạch cầu cụ thể, các tế bào ung thư vú và tế bào ung thư gan. Trái cây này cũng có chất chống oxy hóa, đặc tính chống viêm và kháng histamin.
  Nghệ.
  Mặc dù các nhà nghiên cứ cho rằng nghệ ở đất nước  Ấn Độ đã được biết đến với những lợi ích cho sức khỏe từ hàng ngàn năm qua. Nhiều nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng người dân Ấn Độ đã đúng trong việc sử dụng nghệ của họ cho mục đích y học. Phát triển ở Nam Á, loại thảo dược này trong gia đình gừng (Zingiberaceae) lần đầu tiên được biết đến như một loại thần dược. Nhưng trong các bài thuốc của các danh y Trung Quốc xưa,và trong dân gian đã sử dụng thành phần nghệ như một vị thuốc chính để trở thành một bài thuốc hay chữa rất nhiều bệnh nan y,và mãn tính.
   Các thành phần hoạt chất trong củ nghệ, curcumin, có tính chất chống viêm và khử trùng. Điều này giải thích khả năng chữa bệnh của nó khi áp dụng cho các vết cắt và trầy xước. Chống viêm  nhưng không có tác dụng phụ là ưu điểm được so sánh với một số loại thuốc dược phẩm hiện đại. Chúng bao gồm chảy máu đường ruột, loét, và giảm của các tế bào máu trắng,tế bào ác tính trong ung thư gan. Điều này làm cho nghệ thay thế an toàn cho một số loại thuốc không theo toa.
Sử dụng củ nghệ có thể có tác dụng làm chậm hoặc ngăn chặn nhiều loại ung thư. Nó làm chậm sự lây lan của các tế bào ung thư thông qua loại bỏ. Các nghiên cứu đã đưa ra bằng chứng rằng nghệ có thể hỗ trợ trong việc ngăn ngừa ung thư vú lây lan đến phổi. Nó có thể giúp ngăn ngừa ung thư ruột kết, và có thể hỗ trợ trong công tác phòng chống ung thư tuyến tụy.
Các thực phẩm khác kết hợp với nghệ tăng cường khả năng chữa bệnh của nó. Khi kết hợp với súp lơ, củ nghệ có thể giúp ngăn ngừa ung thư tuyến tiền liệt. Hành tây có thể tăng cường tác dụng của nghệ trên ngăn ngừa ung thư ruột kết. Nghệ cũng giúp ngăn ngừa khối u ác tính và ngăn chặn sự phát triển của các mạch máu mới phát triển trong các khối u. Nó cũng được cho là làm giảm nguy cơ của bệnh bạch cầu ở trẻ em.

Thứ Sáu, 10 tháng 2, 2012

THUỐC CHỮA UNG THƯ PHỔI


                   PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ UNG THƯ PHỔI BẰNG ĐÔNG Y
     Ung thư phổi là một bệnh nghiêm trọng nên luôn luôn được quản lý bởi một chuyên gia chăm sóc sức khỏe đủ điều kiện. Các phương pháp khắc phục hậu quả bằng thảo dược trong y học cổ truyền ít khi được sử dụng ở vị trí chiến lược so với các phương pháp điều trị khác,chính điều này cũng rất hiếm khi được đề nghị bởi các bác sĩ chuyên khoa ung thư của bạn mà chỉ trong trường hợp y học hiện đại đã không thể can thiệp được nữa.Mà khi đó thì tình trạng bệnh nhân đã quá nguy kịch nên dù lúc ấy những bài thuốc hay đến mấy hoặc những phương pháp trong y học cổ truyền có hiệu nghiệm thế nào cũng không mang lại hiệu quả như mong muốn. Các loại thảo dược tốt nhất có thể được kết hợp sử dụng như là một liệu pháp phụ trợ trong điều trị ung thư phổi,cũng như việc sử dụng của các loại thảo mộc một mình không đảm bảo một kết quả sức khỏe cụ thể. Các loại thảo mộc có thể chứa các thành phần dược liệu mạnh mẽ và cần được điều trị với sự thận trọng vì thế cần phải có kinh nghiệm thực tế nghiên cứu , sử dụng bài thuốc lâu năm cũng như hiểu rất rõ những tác dụng của những hoạt chất có trong mỗi vị thuốc.
      Ung thư phổi thường biểu hiện trong các tế bào lót phế quản , hoặc các ống phế quản có thể giúp cung cấp oxy cho phổi và máu của bệnh nhân. Trung tâm Thông tin Công nghệ sinh học Trung Quốc nói rằng có hai loại chính của ung thư phổi không tế bào nhỏ và tế bào nhỏ. Không tế bào nhỏ di động chiếm khoảng 80% của tất cả các trường hợp ung thư phổi. Các biện pháp khắc phục hậu quả của một số thảo dược có thể là một liệu hữu ích trong điều trị ung thư phổi của bệnh nhân.
  Với những danh y Trung Hoa xưa vẫn coi ung bứu là một căn bệnh huyền bí và nguy hiểm hơn cả một trận dịch,,bởi những phương pháp nội soi hay chiếu chụp hiện đại như ngày nay không có,chỉ có cách mổ xẻ nghiên cứu bệnh học khi bệnh nhân đã tử vong.Nhưng chính biện pháp nghiên cứu bệnh như thế lại là phương pháp thực tế nhất đảm bảo rõ ràng từ nguyên nhân đến sự di căn,phá hủy các bộ phận như thế nào.Kết hợp theo kinh nghiệm thực tế với sự hiểu biết thuần thục về tác dụng của từng vị thuốc,từng giai đoạn bệnh và từng thể trạng bệnh nhân với hang nghì căn bệnh khác,từ đây các danh y đã đúc kết và để lại cho hậu thế một kho tàng kiến thức về dược học trong đông y-Đó là rất nhiều những bài thuốc hay,những bài thuốc quý với rất nhiều những vị thuốc có thể coi là thần dược đã bị thất truyền.
  Tại Bệnh Viện Đông Y tỉnh Quảng Đông -Trung Quốc,hiệp hôi ung thư đã khẳng định ung thư phổi là một vấn đề sức khỏe phổ biến, đặc biệt là những người hút thuốc. Dự đoán rằng đến năm 2030, sẽ có hơn 2000.000 người đàn ông và phụ nữ Trung Quốc được chẩn đoán với điều kiện sức khỏe nghiêm trọng này. Hút thuốc - bao gồm cả tiêu thụ của khói thuốc lá - là yếu tố nguy cơ hàng đầu cho phát triển ung thư phổi, mặc dù di truyền, ô nhiễm không khí và bức xạ khác đóng góp chung cho sự phát triển của tình trạng này. Đau ngực, khó thở và ho ra máu là dấu hiệu phổ biến và triệu chứng của ung thư phổi.
    Mặc dù các biện pháp khắc phục hậu quả bằng thảo dược đã được sử dụng như là một liệu pháp điều trị phụ trợ, không phải tất cả các loại thảo mộc được sử dụng cho mục đích y tế có thể được hỗ trợ bởi các thử nghiệm nghiên cứu lâm sàng nghiêm ngặt. Bệnh Viện Đông Y tỉnh Quảng Đông báo cáo rằng ba loại thảo mộc là nhân sâm mỹ, nhân sâm châu Á và hạt nho là một trong những biện pháp tự nhiên hữu ích nhất trong điều trị ung thư phổi . Các loại thảo mộc khác được biết đến với khả năng chống ung thư với kết quả rất khả quan bao gồm :trầm hương, gừng, nghệ, đông trùng hạ thảo,tỏi,trà xanh…Đây cũng chính là những vị thuốc có tên trong các bài thuốc bí truyền của các danh y Trung Hoa xưa.Tuy nhiên trong mỗi bài thuốc với số lương từ 18 đến 25 vị thuốc kết hợp lại của các danh y xưa là một điều quá phức tạp với nhiều tên gọi quá lạ lẫm với chính những người chuyên môn muốn nghiên cứu và ứng dụng.
   TRÀ XANH.
Trà xanh thực sự rất hữu ích để quản lý các triệu chứng của ung thư phổi. Trà xanh chứa chất chống oxy hóa, được gọi là polyphenol, giúp bảo vệ cơ thể của chúng ta từ các gốc tự do, các chất lạ có thể gây ra bệnh tật, nhiễm trùng và tổn thương tế bào trong cơ thể . Kết quả nghiên cứu cho rằng các gốc tự do có thể đóng một vai trò trong sự khởi đầu của điều kiện sức khỏe, chẳng hạn như ung thư. Polyphenol trong trà xanh cũng có thể tiêu diệt các tế bào ung thư hoặc làm chậm sự tiến triển của tế bào ung thư. Các nghiên cứu về hiệu quả của trà xanh trong bệnh ung thư phổi là kết luận và nghiên cứu thêm nhiều năm nữa là rất cần thiết.
TỎI.
Tỏi có lẽ tốt hơn được biết đến như là một loại thảo mộc cay được sử dụng để hương vị món ăn thực phẩm. Tuy nhiên, nó cũng có thể có tính chất dược liệu và có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc điều trị rất nhiều điều kiện bao gồm cả bệnh tim mạch, cholesterol cao và nhiễm trùng da. Trung tâm Ung thư Châu Á khẳng định rằng tỏi cũng được sử dụng để ngăn chặn và điều trị các hình thức phổ biến của bệnh ung thư và có thể làm việc gây chết tế bào ung thư và thúc đẩy khả năng miễn dịch.
   Tỏi là thành phần phổ biến được đánh giá cao vì tính chất điều trị của nó. Đôi khi được sử dụng như là một biện pháp khắc phục thay thế cho nhiều bệnh, bao gồm cholesterol cao và huyết áp cao, nghiên cứu cho rằng nó cũng được sử dụng để giúp ngăn chặn các hình thức ung thư khác nhau, bao gồm ung thư phổi. Thử nghiệm lâm sàng đánh giá hiệu quả của tỏi như một phương pháp điều trị ung thư phổi đang thiếu, và kết quả của một nghiên cứu phòng thí nghiệm được công bố trong vấn đề ung thư phổi năm 2000 của chương trình "Thử nghiệm & Y học phân tử" mà nó có thể gây chết tế bào ung thư phổi-một kết quả hết sức kinh ngạc.
   NHÂN SÂM.
Nhân sâm Châu Á cũng là một vị thuốc thảo dược mạnh mẽ mà có thể hữu ích trong điều trị ung thư phổi. Theo các chuyên gia tại Trường Đại học Trung y dược Quảng Châu, một số nghiên cứu với kết quả cho thấy thảo dược này có thể làm giảm nguy cơ ở mức di căn cho một số loại ung thư, bao gồm cả phổi, gan, buồng trứng, dạ dày và ung thư tuyến tụy. Các nghiên cứu khác cho thấy rằng nhân sâm Châu Á có thể ức chế sự phát triển của khối u, mặc dù các chuyên gia thừa nhận rằng nghiên cứu hơn nữa có thể được yêu cầu xác minh này có hiệu lực y tế. Nhân sâm châu Á cũng có thể hữu ích trong việc cải thiện mức độ chịu đựng về tinh thần và thể chất của bệnh nhân.
  Những vị thuốc trên rõ ràng là rất quen thuộc với tất cả chúng ta,nhưng nếu sử dụng chỉ đơn giản một vị thuốc thì sẽ không cho chúng ta kết quả chữa bệnh như mong muốn,còn nếu chúng ta kết hợp không đúng thì sẽ làm cho bệnh nặng hơn,và có thể gây tử vong cho bệnh nhân.
   Trong nghiên cứu của các chuyên gia tại đây đã cho thấy một số bài thuốc bí truyền của các danh y xưa đều có tác dụng tăng cường miễn dịch và hoạt động như chất chống oxy hóa. Chất chống oxy hóa có thể giúp chống lại các vi khuẩn có hại và vi rút dẫn đến nhiễm trùng và bệnh tật và có thể làm trầm trọng thêm các triệu chứng ung thư của bệnh nhân. Quan trọng hơn với tác dụng chon lọc tế bào ác tính để ức chế bỏ đói làm cho loại tế bào tự phân hủy không phát triển mới là ưu điểm chính của những bài thuốc trên,trong khi đó những tế bào bình thường không bị ảnh hưởng gì.Còn biện pháp y học hiện đại với những phương pháp hóa trị,xạ trị lại không làm được điều đó,trong khi tấn công tiêu diệt tế bào ác tính thì tế bào bình thường cũng bị tiêu diệt và suy giảm với số lượng nhiều hơn tế bào ác tính bị tiêu diệt ,bởi khi bệnh nhân bị ung thư có nghĩa đã có sự xâm lấn của tế bào ác tính,hiển nhiên lúc ấy tế bào ác tính sẽ yếu hơn và không thể tự bảo vệ chính mình.
   Việc phát triển và ứng dụng những bài thuốc của các danh y xưa tại bệnh viện đông y lớn nhất Trung Quốc trong việc chữa bệnh ung thư phổi nói riêng,các loại ung thư khác và những bệnh nan y mãn tính khác nói chung đó là sự khẳng định về biện pháp an toàn và hiệu quả tối ưu trong điều trị mà y học hiện đại không thể phủ nhận.