
Ung thư vú là một căn bệnh trong đó các tế bào ác tính (ung thư) được phát hiện trong các mô của vú. Các tế bào ung thư này sau đó có thể lây lan trong các mô hoặc cơ quan và các bộ phận khác của cơ thể. Ung thư vú là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong thứ hai của phụ nữ ngày nay. Tại Trung Quốc, cứ mỗi 2 trong 35 phụ nữ sẽ được chẩn đoán bị ung thư vú trong cuộc đời. Phụ nữ Trung Quốc có nguy cơ cao hơn so với Malaysia hay Ấn Độ khoảng 10-20%. Tần suất cao nhất là trong 55 - 59 nhóm người độ tuổi. Nguy cơ ung thư vú tăng theo tuổi tác. Các tin tốt là nhiều phụ nữ còn sống sót sau căn bệnh này như là một kết quả của việc phát hiện sớm và điều trị được cải thiện bằng đôngy.
Các yếu tố gây ra bệnh ung thư này là không rõ. Nó có thể được cho là do tiền sử gia đình đã có người bị ung thư vú, việc có kinh nguyệt sớm hoặc các yếu tố nguy cơ khác có thể. Vì thế mà rất khó khăn để xác định, bất kỳ ai trong chúng ta đều có thể có nguy cơ, đặc biệt là khi phụ nữ chúng ta có độ tuổi từ 40 trở lên. Trong khi các yếu tố không rõ để phát hiện sớm thì việc ăn các thực phẩm bằng thảo dược hàng ngày cũng như sử dụng dược liệu có trong tự nhiên để phòng và chữa bệnh dứt điểm hoàn toàn không có gì là khó,nhất là đối với y học cổ truyền Trung Hoa. Truyền thống y học cổ truyền Trung Quốc điều trị ung thư dựa trên nguyên tắc của Fu Zheng Gu Ben. "Fu Zheng" có nghĩa là tăng cường những gì là chính xác. "Gu Ben" có nghĩa là tái sinh và sửa chữa. Điều trị ung thư với các loại thảo mộc Trung Quốc đòi hỏi chẩn đoán chính xác nguyên nhân có thể xảy ra của bệnh ung thư, sau đó lựa chọn các loại thảo dược phù hợp để điều trị. Chẩn đoán chính xác hiện nay được thực hiện bằng các biện pháp y học phương tây. Các loại thảo mộc duy nhất hiếm khi được sử dụng riêng biệt,chính vì thế mà trong mỗi bài thuốc của các danh y xưa có trên 25 loại thảo dược là bình thường.
Các loại thảo mộc được kết hợp thành công thức,các công thức này sẽ thay đổi từ người này sang người khác,từ đời này sang đời khác cho đến khi tác dụng của mỗi bài thuốc đạt giá trị chữa bệnh tối ưu nhất. Công thức thường chứa các loại thảo mộc cho nhiều mục đích khác nhau. Có loại thảo mộc để di chuyển khí, có loại thảo mộc chống ung thư, có loại thảo mộc xây dựng miễn dịch, loại thảo mộc để trung hòa chất độc….. Đây là một số thảo mộc ‘’vị thuốc’’ tiêu biểu có trong bài thuốc chữa ung thư vú của y học cổ truyền Trung Hoa xưa
CỎ LINH LĂNG. |
Cỏ Linh Lăng |
Theo nghiên cứu của các nhà thực vật Trung Quốc kết luận nguồn gốc cỏ linh lănhg một loại thực vật bản địa lâu năm ở Iran. Nó có thể sống 5-12 năm và hiện nay, cỏ linh lăng được trồng làm thức ăn cho gia súc, việc nó có mặt trong một số bài thuốc chữa ung thư vú của những danh y Trung Hoa xưa thì hiển nhiên nó có nhiều lợi ích dinh dưỡng và chữa bệnh cho con người. Mầm cỏ linh lăng có chứa số lượng lớn các chất phytochemical, có thể bảo vệ và chống lại các bệnh như ung thư tuyến tụy, ruột kết và ung thư bạch cầu, bệnh loãng xương, u vú , cholesterol cao, xơ cứng động mạch và bệnh tim mạch cũng như các triệu chứng liên quan với phụ nữ tiền mãn kinh. Các hoạt chất có trong cỏ linh lăng: Beta-carotene, Calcium, Magnesium, Photpho, Kali. Với các tác dụng như: Giảm viêm,kích thích các hệ thống miễn dịch,giải độc,Hỗ trợ hoạt động tình dục ,Dễ tiêu hóa protein, Cao trong chất chống oxy hóa, saponin và chất phytochemical,Ngăn chặn phá hủy DNA, Bảo vệ khỏi những ảnh hưởng liên tục của lão hóa.
RAU DỀN. |
Rau Dền |
Rau dền là một nguồn dinh dưỡng tốt của vitamin A, vitamin C,vitaminD , folate, vitamin K, cũng như mangan, sắt và magiê. Rau dền chứa nhiều carotenoid như beta-carotene và lutein , cũng như flavonoids như kaempferol, và một loạt các lignans , chlorophyll, và glycolipids với đặc tính chống ung thư vú. Rau dền đã được khẳng định có tác dụng chống viêm, chống oxy hóa, bảo vệ thần kinh, và để bảo vệ mắt khỏi thoái hóa điểm vàng và đục thủy tinh thể. Các thành phần rau dền đã được kết luận gây ức chế sự phát triển và phổ biến của các tế bào ung thư cổ tử cung,ung thư vú. Chế độ ăn uống hàng ngày có thành phần rau dền sẽ giúp cho chúng ta loại trừ được các bệnh ung thư tử cung,ung thư vú,ung thư ruột kết.
XƯƠNG CỰA. |
Xương Cựa |
Xương cựa là một loại cây lâu năm có một hệ thống rễ với trên 20 hoạt chất có giá trị được đặt ở vị trí hang đầu trong việc điều trị ung thư gan và đây cũng là một loại thuốc bổ năng lượng phổ biến ở Trung Quốc,nó không chỉ có tác dụng đơn thuần điều trị cho các vi rút cảm lạnh và cúm, nó còn có khả năng tăng cường hệ thống miễn dịch chống lại căn bệnh ung thư. Đây là loại thảo dược được cho là kích thích các lymphokin kích hoạt killer (LAK) các tế bào lành tính vào tấn công các khối u chứa các tế bào ác tính. Vỏ thân, vỏ rễ, và quả của cây đã được sử dụng để điều trị bệnh tim, ký sinh trùng, túi mật và gan. Loại thảo dược này có thể cải thiện dòng chảy của mật giúp loại bỏ các hóa chất độc hại còn sót lại bởi các tế bào gan ung thư. CÂY ANH THẢO. Là một loại gốc hoa dại lâu năm ở Bắc và Nam Mỹ, có một lịch sử lâu dài của việc sử dụng làm thực phẩm và thuốc. Thổ dân châu Mỹ và châu Âu ăn cây anh thảo vào mỗi buổi tối như là một thực phẩm ở truyền thống. Đây là một loại thảo dược được sử dụng phần lá của cây để điều trị vết bầm tím và bệnh trĩ. Ngày nay, hoa anh thảo buổi tối được sử dụng chủ yếu phần tinh dầu giàu các axit béo thiết yếu, đặc biệt là axit gamma linolenic, hoặc GLA. Những axit béo mang lại lợi ích chức năng miễn dịch trong nhiều cách khác nhau nhất là đối với hệ miễn dịch cho các bệnh nhân bị ung thư vú. Dầu anh thảo có chứa axit omega-6 thiết yếu linoleic acid béo (LA) và axit gamma-linolenic (GLA). Tuy nhiên, không giống như các chất béo omega-6 gây viêm, LA và GLA cung cấp một hiệu ứng chống viêm. GLA được tìm thấy trong dầu anh thảo chỉ có vào buổi tối và trên thế giới chỉ có một loại cây này là cho chúng ta loại axit đặc biệt này.
BỒ CÔNG ANH. |
Bồ Công Anh |
Bồ công anh là một thành viên của gia đình họ Cúc ,một nguồn gốc thảo mộc lâu năm ở bán cầu phía Bắc và tìm thấy đang phát triển hoang dã trong đồng cỏ của vùng ôn đới. Bồ công anh thương mại hầu hết được trồng ở Bulgaria, Hungary, Ba Lan, Romania, và Anh Quốc. Bồ công anh thường được sử dụng trong y học người Mỹ bản xứ và ở Trung Quốc,dung phần gốc thảo mộc để điều trị bệnh thận, rối loạn dạ dày, ợ nóng. Trong y học cổ truyền Ả Rập, bồ công anh đã được sử dụng để điều trị bệnh gan và lá lách. Trong y học cổ truyền Trung Quốc , bồ công anh được kết hợp với các loại thảo mộc khác để điều trị bệnh gan, tăng cường phản ứng miễn dịch với nhiễm trùng đường hô hấp trên, viêm phế quản, viêm phổi, và như là một vị thuốc đặc trị ung thư vú. Gốc và lá bồ công anh được sử dụng rộng rãi ở châu Âu cho các bệnh đường tiêu hóa. Hợp tác khoa học châu Âu về Phytotherapy (ESCOP) khuyến cáo gốc của cây bồ công anh cho sự phục hồi của chức năng gan, điều trị rối loạn dạ dày, và để điều trị mất cảm giác ngon miệng. Một số njhaf ngiên cứu về đông y hiện đại khẳng định rằng bồ công anh có thể giải độc gan và túi mật, giảm tác dụng phụ của các thuốc chuyển hóa (chế biến) của gan, và giảm các triệu chứng liên quan với bệnh gan. Bồ công anh thường được coi là an toàn với các tác dụng phụ hiếm gặp bao gồm viêm da tiếp xúc, tiêu chảy, rối loạn tiêu hóa. Bồ công anh được sử dụng như một thành phần salad, và gốc rang và các chất chiết xuất của nó đôi khi được sử dụng như một chất thay thế cà phê.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét